04/10/2024 21:13Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 17/04/2015 21:32
Nguyên tác
迢遞來三蜀,
蹉跎有六年。
客身逢故舊,
發興自林泉。
過懶從衣結,
頻遊任履穿。
藩籬無限景,
恣意向江天。
Phiên âm
Điều đệ lai Tam Thục[1],
Sa đà hữu lục niên.
Khách thân phùng cố cựu,
Phát hứng tự lâm tuyền.
Quá lãn tòng y kết,
Tần du nhiệm lý xuyên.
Phiên ly vô hạn cảnh,
Thư ý hướng giang thiên.Dịch nghĩa
Lếch thếch tới vùng Tam Thục,
Thế mà lần lữa đã được sáu năm rồi.
Làm kiếp người sống nhờ may gặp được các bạn cũ,
Thấy hứng thú nơi núi rừng.
Đi ra ngại cài áo,
Tản bộ xỏ chân vào đôi guốc.
Nếu rào dậu ngăn cản tầm mắt,
Muốn có hứng thơ thì cứ hướng lên trời cao thôi.Bản dịch của Phạm Doanh
Lếch thếch tới Tam Thục,
Thế mà sáu năm rồi.
Kiếm sống nhờ bạn cũ,
Gây hứng chốn núi đồi.
Đi ra áo biếng mặc,
Tản bộ guốc một đôi.
Rào dậu ngăn hứng thú,
Cứ việc ngẩng trông trời.
(Năm 765)
[1] Thục quận, do Tần lập ra, sau Hán Cao Tổ nới thành quận Quảng Hán, sau đó Hán Vũ Đế lập thêm quận Kiền Vi, sau này gọi vùng đất nới rộng là Tam Thục.