19/04/2024 23:20Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
梁昭明太子分經石臺

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 19/12/2005 12:23

 

Nguyên tác

梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數。
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦非臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。

Phiên âm

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do ký “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương[1] vi Pháp Hoa[2]
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử[3] đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thuỷ
Sở lâm hoạ mộc trì ương ngư[4]
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn[5] tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số[6]
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài[7]
Bồ Đề bản vô thụ[8]
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh[9]

Dịch nghĩa

Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ “Chia kinh”
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tuỳ thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai hoạ, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá “Chia kinh”
Mới hiểu kinh “không chữ” mới thật là chân kinh

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Nơi Lương thái tử từng chia kinh
Hai chữ “Phân kinh” khắc rõ rành
Nền đá góc gai mưa bụi lấp
Trăm loài cỏ lạnh chết điêu linh
Chẳng thấy kinh xưa để lại đâu
Chỉ nghe kể chuyện đã từ lâu
Chiêu Minh thái tử mê văn tự
Chú giải lôi thôi chữ với câu
Phật vốn là không, chẳng vướng vật
Sao lại đem kinh chia với cắt?
Văn thiêng không nhờ ngôn ngữ khoa
Chi là Kim Cương, chi Pháp Hoa?
Sắc Không cảnh giới mù không hiểu
Theo Phật, u mê, Phật hoá ma
Cha con một họ cùng đui cả
Một niệm dấy lên, đến cửa ma
Lăng núi, đài sen không nổi dậy
Một hôm ngựa trắng vượt Trường Giang
Rừng cây nước Sở bừng bừng cháy
Kinh biến ra tro, đài sụp tan
Muôn nghìn lời cũng hoàn vô ích
Sư ngu hậu thế tụng lăng nhăng
Thế Tôn ở núi Linh truyền Pháp
Cứu người nhiều tựa cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở lòng ta đó
Gương sáng chẳng phải đài
Bồ đề cây không có
Ta đọc Kim Cương quá số nghìn
Yếu chỉ bên trong chưa thực rõ
Đến đây, nền đá đài “Chia kinh”
“Không chữ” chân kinh, giờ mới tỏ
Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.

[3] Một nhà cha con (cùng không hiểu Pháp). Lương Vũ Đế 梁武帝, năm Phổ thông thứ 8, sai sứ đi thỉnh Bồ Đề Đạt Ma 菩提達摩 về thành đô là Kim Lăng. Đế hỏi: “Trẫm lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?” Sư Đạt Ma đáp: “Đều không công đức. Tại sao không có công đức? Bởi vì những việc vua làm là hữu lậu chỉ có những quả nhỏ trong vòng Nhân, Thiên, như ảnh tuỳ hình, tuy có, nhưng không phải thật. Vậy công đức chân thật là gì? Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.” Sau câu chuyện đối đáp này, Sư biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, bỏ đi. (Xem “Sáu cửa thiền thất”, trang 138-139, Trúc Thiên dịch, chùa Khánh Anh xuất bản, Paris, France).
[1, 2] Kim Cương, Pháp Hoa: tên hai bộ kinh Phật.
[4] Bạch mã, Sở lâm: hai câu này nói về tích Hầu Cảnh trước là tướng Đông Nguỵ, sau hàng Lương rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Nguỵ đưa tờ hịch cho Lương, có câu: “Sợ nước Sở mất vượn, hoạ lây đến cây rừng, cửa thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao”.
[5] Chỉ Phật tổ.
[] Một ngọn núi ở Trung Ấn Độ, nơi Thế Tôn giảng Pháp Hoa kinh.
[6] Hằng Hà là một con sông ở Ấn Độ, hai bờ toàn cát. Hằng Hà sa số: nhiều như cát sông Hằng, câu này sau trở thành một thành ngữ.
[7] Bài kệ của Lục tổ Huệ Năng 六祖慧能: “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai?” 菩提本無樹, 明鏡亦非臺。 本來無一物, 何處惹塵埃 (Bồ đề vốn không cây, Gương sáng chẳng phải đài, Xưa nay không một vật, Bụi bặm bám vào đâu?). Xem Thiền luận (bộ trung), trang 60-61, Daizetz teitaro Suzuki, Tuệ Sỹ dịch, An Tiêm xuất bản, Saigon, Việt Nam, 1971.
[8] Lấy điển ở một bài kệ: “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai” (Bồ đề không phải ai, Minh kính không phải đài, Vốn không phải một vật, Bụi bặm vướng vào đâu).
[9] Vô tự kinh: kinh không chép bằng chữ. Ý nói đạo ở tâm chứ không phải ở kinh kệ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài