23/04/2024 13:32Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 09/02/2009 11:14
Nguyên tác
池塘春草謝家春,
萬古千秋五字新。
傳語閉門陳正字,
可憐無補費精神。
Phiên âm
Trì đường xuân thảo[1] Tạ gia xuân,
Vạn cổ thiên thu ngũ tự tân.
Truyền ngữ bế môn trần chính tự,
Khả liên vô bổ phí tinh thần.Dịch nghĩa
Cỏ xanh biếc bờ ao, nhà họ Tạ xuân,
Ngàn thu, vạn cổ, năm chữ của câu thơ mãi vẫn mới mẻ.
Nhắn nhủ rằng việc đóng cửa tìm tòi sắp xếp câu chữ,
Đáng thương thay chỉ vô bổ và uổng phí tinh thần.Bản dịch của Điệp luyến hoa
Ao biếc cỏ nhà họ Tạ xuân,
Nghìn thu năm chữ mãi thanh tân.
Đóng cửa xếp câu, tìm lục chữ,
Thương thay vô bổ, phí tinh thần.
Bài này luận thơ một đại biểu của Giang Tây thi phái là Trần Sư Đạo 陳師道. Phương thức làm thơ của Trần Sư Đạo là khổ ngâm, "bế môn mịch cú" (đóng cửa tìm câu chữ), nặng về câu chữ, kỹ xảo. Nguyên Hiếu Vấn so sánh với phong cách thơ của Tạ Linh Vận 謝靈運 đời Tấn vốn tự nhiên thiên thành để phê phán việc "bế môn mịch cú" chỉ lãng phí tinh thần và công sức.
[1] Danh cú của Tạ Linh Vận "Trì đường sinh xuân thảo, Viên liễu biến minh cầm" 池塘生春草,園柳變鳴禽 (Bờ ao mọc cỏ xuân, Liễu vườn rộn tiếng chim) trong bài "Đăng trì thượng lâu" 登池上樓.