05/10/2024 03:47Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đề Hành Sơn huyện Văn Tuyên Vương miếu tân học đường, trình Lục tể
題衡山縣文宣王廟新學堂呈陸宰

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/03/2015 22:42

 

Nguyên tác

旄頭彗紫微,
無復俎豆事。
金甲相排蕩,
青衿一憔悴。
嗚呼已十年,
儒服弊於地。
征夫不遑息,
學者淪素志。
我行洞庭野,
欻得文翁肆。
侁侁胄子行,
若舞風雩至。
周室宜中興,
孔門未應棄。
是以資雅才,
渙然立新意。
衡山雖小邑,
首唱恢大義。
因見縣尹心,
根源舊宮閟。
講堂非曩構,
大屋加塗墍。
下可容百人,
牆隅亦深邃。
何必三千徒,
始壓戎馬氣。
林木在庭戶,
密幹疊蒼翠。
有井朱夏時,
轆轤凍階戺。
耳聞讀書聲,
殺伐災彷彿。
故國延歸望,
衰顏減愁思。
南紀改波瀾,
西河共風味。
採詩倦跋涉,
載筆尚可記。
高歌激宇宙,
凡百慎失墜。

Phiên âm

Mao Đầu[1] tuệ Tử Vi,
Vô phục trở đậu sự.
Kim giáp tương bài đãng,
Thanh khâm nhất tiều tuỵ.
Ô hô dĩ thập niên,
Nho phục tệ ư địa.
Chinh phu bất hoàng tức,
Học giả luân tố chí.
Ngã hành Động Đình dã,
Hốt đắc Văn Ông[2] tứ.
Sân sân trụ tử hành,
Nhược vũ phong vu chí.
Chu thất nghi trung hưng,
Khổng môn vị ưng khí.
Thị dĩ tư nhã tài,
Hoán nhiên lập tân ý.
Hành Sơn tuy tiểu ấp,
Thủ xướng khôi đại nghĩa.
Nhân kiến huyện doãn tâm,
Căn nguyên cựu cung bí.
Giảng đường phi nẵng cấu,
Đại ốc gia đồ ký.
Hạ khả dung bách nhân,
Tường ngung diệc thâm thuý.
Hà tất tam thiên đồ,
Thuỷ áp nhung mã khí.
Lâm mộc tại đình hộ,
Mật cán điệp thương thuý.
Hữu tỉnh chu hạ thì,
Lộc lư đống giai sĩ.
Nhĩ văn độc thư thanh,
Sát phạt tai phảng phất.
Cố quốc diên quy vọng,
Suy nhan giảm sầu tứ.
Nam kỷ cải ba lan,
Tây hà cộng phong vị.
Thái thi[3] quyện bạt thiệp,
Tải bút thượng khả ký.
Cao ca kích vũ trụ.
Hoàn bách thận thất truỵ.

Dịch nghĩa

Sao Mao Đầu lấn chỗ của sao Tử Vi,
Nên không khôi phục lại việc tế lễ.
Bộ áo giáp vàng của quân nhân thì chau chuốt (trọng võ),
Trong khi áo xanh của anh học trò thì nhầu nát (khinh văn).
Than ôi đã mười năm rồi,
Áo của nhà nho bị chà dưới đất.
Lính tráng đã chẳng được nghỉ ngơi,
Mà học trò cũng mất hết ý chí.
Tôi đi ngang cánh đồng vùng hồ Động Đình,
Bỗng hiểu được nỗi lòng Văn Ông.
Học trò đi lại tấp nập,
Tưởng như đi về từ nơi hóng mát ở đền Vũ Vu.
Nhà Chu xứng đáng được phục hồi,
Cửa Khổng không nỡ vất bỏ.
Đó chính là dùng cái vốn quý báu,
Mà phát minh ra cái ý mới.
Hành Sơn tuy là một huyện nhỏ,
Mà lại đứng đầu trong việc nêu cao nghĩa lớn.
Nhân vì thấy tấm lòng của quan đầu huyện,
Nguồn gốc là ở bài “bí cung” thời xưa.
Giảng đường không phải là kiến trúc cũ,
Mái nhà lớn được tô điểm thêm.
Dưới mái có thể chứa hàng trăm người,
Tường vách thêm quanh co hun hút.
Cần gì phải mong tới ba ngàn học trò,
Mới đầu hãy cứ làm dịu không khí chiến tranh đi đã.
Rừng cây ở ngay trước cửa ngõ đây,
Thân cây chen chúc tạo ra cái vẻ xanh ngắt.
Vào mùa hè nóng rực có giếng nước,
Ròng rọc kín nước giếng bị rỉ sét trên ghè đá.
Tai nghe tiếng đọc sách,
Mà tai vạ chém giết phảng phất đâu đây.
Làng cũ cứ mong về hoài,
Lòng buồn cùng với sắc mặt bơ phờ.
Chuyến đi về phía nam thay đổi bao nhiêu lớp sóng,
Sông vùng tây gom lại bao nhiêu là mùi gió.
Cứ tất tả nhặt thơ khiến mỏi mệt,
Sức bút này hãy còn ghi được.
Hát vang lên cho um trời đất,
Cuối cùng là đề phòng cho khỏi lạc mất.

Bản dịch của Phạm Doanh

Kẻ dưới lấn áp trên,
Việc cúng tế chẳng thiết.
Giáp vàng cứ khoe khoang,
Thụng xanh đều nhầu nát.
Than ôi đã mười năm,
Áo nho rơi xuống đất.
Lính tráng không nghỉ ngơi,
Học trò ý ngờ nghệt.
Tôi qua ruộng Động-đình,
Bỗng hiểu Văn ông nết.
Rầm rập kẻ học đi,
Như Vũ vu hóng mát.
Nhà Chu nên phục hưng,
Cửa Khổng chưa đáng vất.
Chính qua cái hay này,
Ý mới bỗng hoàn tất.
Hành Sơn ấp nhỏ nhoi,
Nêu nghĩa lớn đứng nhất.
Quan huyện, nhân hiểu lòng,
Bí cung gốc y hệt.
Xưa không có giảng đường,
Nhà lớn thêm chấm phết.
Dưới mái chứa trăm người,
Góc tường thêm cong quặt.
Cần gì ba ngàn người,
Càng làm cho ngột ngạt.
Ngay trước cửa, rừng cây,
Thân cây chen xanh ngát.
Hè nóng có giếng khơi,
Kè đá, guồng rỉ sét.
Tai nghe tiếng học bài,
Thoảng như nạn chém chặt.
Làng cũ mong trở về,
Lòng buồn hiện ra mặt.
Lối nam sóng đổi thay,
Sông tây mùi thêm thắt.
Bút chép vẫn còn ghi,
Lượm thơ mỏi đi nhặt.
Ca vang răn khắp nơi,
Cần lo phòng lạc mất.
(Năm 770)

Văn Tuyên Vương miếu tức miếu thờ Khổng Tử. Đường Huyền Tông vào năm Khai Nguyên thứ 27 (739) truy phong Khổng Tử là Văn Tuyên Vương.

[1] Theo Sử ký, sao Mão, một sao trong 24 ngôi gọi là Mao Đầu, tức là sao chổi vậy. Thời xưa lấy hiện tượng trên trời mà giải thích việc người, cho rằng khi sao Mão xuất hiện là có chuyện đánh dẹp người Hồ. Sau này dùng chỉ loạn lạc, sao phụ mà lấn vị thứ của sao chính (Tử Vi).
[2] Người thời Tây Hán, tính hiếu học, cuối đời Cảnh Đế coi Thục quận, lập trường học, xiển lễ nghi, văn hoá vùng Thục phát triển mạnh. Sau này dùng làm điển tích nói về người cầm đầu địa phương có thành tích tốt. Ở đây dùng ví quan chủ huyện Hành Sơn là ông họ Lục.
[3] Lễ ký nói: “Thiên tử ngũ niên nhất tuần thủ, tuế nhị nguyệt đông tuần thủ, chí vu Đại tông, sài nhi vọng tự san xuyên, cận chư hầu, vấn bách niên giả tựu kiến chi, mệnh đại sư trần thi, dĩ quan dân phong” 天子五年一巡守,歲二月東巡守,至于岱宗,柴而望祀山川,觐諸侯,問百年者 就 見之,命大師陳詩,以觀民風 (Vua cứ năm năm một lần đi thăm dân tình. Tháng hai trong năm đi về phía đông, tới núi Đại Tông, đốt lửa mà tế vọng sông núi, thăm hỏi người cầm quyền nơi địa phương, hỏi chuyện các bậc già cả tới tụ họp, ra lệnh cho quan thái sư trình ca dao, để thẩm định phong tục trong dân). Sau này, Trịnh Huyền 鄭玄 thời Đông Hán chú giải: “Trần thi vị thải kỳ thi nhi thị chi” 陳詩謂採其詩而視之 (Trình bày thơ có nghĩa là nhặt thơ mà giảng cho rõ nghĩa).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Đề Hành Sơn huyện Văn Tuyên Vương miếu tân học đường, trình Lục tể