25/04/2024 08:55Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nguyễn quốc công
阮國公

Tác giả: Bùi Thức - 裴栻

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/01/2020 13:27

 

Nguyên tác

猶憶丁時阮國公,
荒年疾疫恤諸窮。
望天佛母言良策,
畫地開渠浚水通。
飽以稻梁儲滿廩,
溫教蠶繭養於房。
至今試問誰人識,
石記墻邊告始終。

Phiên âm

Do ức Đinh thì Nguyễn quốc công,
Hoang niên tật dịch tuất chư cùng.
Vọng thiên Phật mẫu ngôn lương sách,
Hoạch địa khai cừ tuấn thuỷ thông.
Bão dĩ đạo lương trừ mãn lẫm,
Ôn giao tàm kiển dưỡng ư phòng.
Chí kim thí vấn thuỳ nhân thức,
Thạch ký tường biên cáo thuỷ chung.

Dịch nghĩa

Còn nhớ Nguyễn quốc công thời Đinh xưa,
Từng giúp dân năm mất mùa hay tật dịch.
Khuyên rằng nếu cầu thì cầu trời, thờ Phật, mẫu là hơn cả,
Lại vạch ra việc khơi ngòi thông nước.
Chống đói lấy ngô lúa dự trữ vào kho,
Muốn ấm giục giã nuôi tăm kéo kén.
Đến nay hỏi ai có biết chuyện này?
Mặc dù trên đá bên tường hãy còn nêu rõ ngọn nguồn.

Bản dịch của Dương Văn Vượng

Thuở trước thời Đinh Nguyễn quốc công,
Cứu dân đói bệnh lúc bần cùng.
Khuyên cầu Phật mẫu mong ơn độ,
Lại chỉ khơi ngòi để nước thông.
Muốn ấm giục người nên kéo kén,
Muốn non ngô lúa cất trong phòng.
Đến nay ai nhớ điều nhân ấy?
Dù có bia ghi nói thuỷ chung.
Bài thơ được chép trong sách Chư gia đề vịnh vựng tuyển của Bùi Đức Hãn ở thôn Yên Trung, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Nguyễn quốc công tức Nguyễn Bặc, thờ tại đền Tân Khai, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Bặc dấy binh theo vua Đinh, vợ ông là người Bảo Thôn. Vùng Bảo Thôn, Mễ Tràng đều có người theo ông đi chống giặc cả. Câu đối ở đền của Nguyễn Kỳ, quê ở xã An Lão, huyện Bình Lục, đỗ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn (1748), quan Đông các đại học sĩ hành Quốc Tử Giám tế tửu: “Kiến quốc đa công thuỳ đạo vô trung sơn thạch chí; Vị dân tận lực thục ngôn hữu đức miếu từ tôn” (Dựng nước lập công to, ai bảo không trung, đá núi còn nêu coi sẽ rõ; Vì dân đem sức cả, cứ rằng có đức, miếu đền thờ phụng chắc dài lâu).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Bùi Thức » Nguyễn quốc công