25/04/2024 08:08Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tống Cố bát phân văn học thích Hồng Cát châu
送顧八分文學適洪吉州

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/03/2015 22:57

 

Nguyên tác

中郎石經後,
八分蓋憔悴。
顧侯運爐錘,
筆力破餘地。
昔在開元中,
韓蔡同贔屭。
玄宗妙其書,
是以數子至。
禦劄早流傳,
揄揚非造次。
三人併入直,
恩澤各不二。
顧于韓蔡內,
辨眼工小字。
分日示諸王,
鉤深法更秘。
文學與我游,
蕭疏外聲利。
追隨二十載,
浩蕩長安醉。
高歌卿相宅,
文翰飛省寺。
視我揚馬間,
白首不相棄。
驊騮入窮巷,
必脫黃金轡。
一論朋友難,
遲暮敢失墜。
古來事反復,
相見橫涕泗。
向者玉珂人,
誰是青雲器。
才盡傷形體,
病渴汙官位。
故舊獨依然,
時危話顛躓。
我甘多病老,
子負憂世志。
胡為困衣食,
顏色少稱遂。
遠作辛苦行,
順從眾多意。
舟楫無根蒂,
蛟鼉好為祟。
況兼水賊繁,
特戒風飆駛。
崩騰戎馬際,
往往殺長吏。
子幹東諸侯,
勸勉防縱恣。
邦以民為本,
魚饑費香餌。
請哀瘡痍深,
告訴皇華使。
使臣精所擇,
進德知曆試。
惻隱誅求情,
固應賢愚異。
列士惡苟得,
俊傑思自致。
贈子猛虎行,
出郊載酸鼻。

Phiên âm

Trung lang[1] Thạch kinh[2] hậu,
Bát phân[3] cái tiều tuỵ.
Cố hầu vận lô chuỳ,
Bút lực phá dư địa.
Tích tại Khai Nguyên trung,
Hàn, Thái[4] đồng bí sĩ.
Huyền Tông diệu kỳ thư,
Thị dĩ số tử chí.
Ngự trát tảo lưu truyền,
Du dương phi tạo thứ.
Tam nhân[5] tính nhập trực,
Ân trạch các bất nhị.
Cố vu Hàn, Thái nội,
Biện nhãn công tiểu tự.
Phân nhật thị chư vương,
Câu thâm pháp cánh bí.
Văn học dữ ngã du,
Tiêu sơ ngoại thanh lợi.
Truy tuỳ nhị thập tải,
Hạo đãng Trường An tuý.
Cao ca khanh tướng trạch,
Văn hàn phi tỉnh tự.
Thị ngã Dương[6], Mã[7] gian,
Bạch thủ bất tương khí.
Hoa lưu nhập cùng hạng,
Tất thoát hoàng kim bí.
Nhất luận bằng hữu nan,
Trì mộ cảm thất truỵ.
Cổ lai sự phản phúc,
Tương kiến hoành thế tứ.
Hướng giả ngọc kha nhân,
Thuỳ thị thanh vân khí.
Tài tận thương hình thể,
Bệnh khát ô quan vị.
Cố cựu do y nhiên,
Thì nguy thoại điên chí.
Ngã cam đa bệnh lão,
Tử phụ ưu thế chí.
Hồ vi khốn y thực,
Nhan sắc thiếu xứng toại.
Viễn tác tân khổ hành,
Thuận tòng chúng đa ý.
Chu tập vô căn đế,
Giao đà hảo vi truý.
Huống kiêm thuỷ tặc phồn,
Đặc giới phong tiêu sử.
Băng đằng nhung mã tế,
Vãng vãng sát trưởng sử.
Tử cán đông chư hầu,
Khuyến miễn phòng túng thứ.
Bang dĩ dân vi bản,
Ngư cơ phí hương nhị.
Thỉnh ai sang di thâm,
Cáo tố hoàng hoa sứ.
Sứ thần tinh sở trạch,
Tiến đức tri lịch thí.
Trắc ẩn thù cầu tình,
Cố ưng hiền ngu dị.
Liệt sĩ ố cẩu đắc,
Tuấn kiệt tư tự trí.
Tặng tử "Mãnh hổ hành[8]",
Xuất giao tải toan tị.

Dịch nghĩa

Sau thời quan trung lang viết kinh lên đá,
Lối bát phân trở nên bị lãng quên.
Ngài họ Cố biết dùng sáng kiến riêng,
Sức mạnh của bút như khai phá đất hoang.
Trước kia vào thời Khai Nguyên,
Hàn Trạch Mộc và Thái Hữu Lân cùng năng nổ.
Vua Đường Huyền Tông khen ngợi lối viết của họ,
Bèn cho vời tất cả tới.
Nhờ đó văn thư của nhà vua sớm được lưu truyền,
Khen ngợi không phải đãi bôi.
Ba người cùng vào chầu thẳng,
Ân trạch vua ban cho họ không ai sánh được.
Ông Cố kia so với ông Hàn và ông Thái,
Chữ nhỏ của ông Cố rất bắt mắt.
Nội trong ngày đã dâng lên vua,
Nghiên cứu kỹ nên cách viết càng kỳ bí.
Cùng với tôi trao đổi về văn học,
Hờ hững với vòng danh lợi.
Ròng rã hai chục năm,
Vui nhộn say nơi Trường An.
Tại nhà các quan lớn hát vang,
Văn chương bút mực bày đầy nơi bộ và chùa chiền.
Coi tôi trong giới văn như Dương Hùng và Mã Dung,
Tới già chẳng quên nhau.
Ngựa nòi sa vào đường hẻm,
Tất nhiên vứt bỏ dây cương vàng.
Bàn về tình bè bạn thật là khó,
Dám rơi rụng trong sớm tối.
Xưa nay sự việc vẫn lật lường,
Nhìn nhau mà mắt lệ rưng rưng.
Nhìn coi những người cao sang,
Ai là người có chí cao cả.
Tài hết làm tổn thương đến thân hình,
Bệnh tiêu chảy làm bẩn tới chức quan.
Các bạn xưa cứ như thế thôi,
Lúc nguy nan nói đến việc trầy trật.
Tôi cam chịu làm ông già nhiều bệnh,
Ông ôm ấp chí lo cho đời.
Việc chi mà lo lắng về miếng ăn, cái mặc,
Để vẻ mặt ít hài lòng.
Đi xa là bị vất vả rồi,
Cứ theo ý của số đông thôi.
Thuyền chèo lênh đênh làm gì có cơ sở vững một chỗ,
Thuồng luồng cá sấu là ma đói sẵn lòng nuốt người,
Huống chi thêm cướp biển nhiều,
Đặc biệt là lo cơn gió dữ.
Nơi xa xôi ngựa chiến cứ nhảy chồm,
Thường giết quan đầu huyện.
Ông lo việc chư hầu phía đông,
Răm rắp đề phòng việc nổi dậy.
Nước lấy dân làm gốc,
Cá đói dùng uổng mồi thơm.
Hỏi đến chuyện buồn chỉ làm cho vết thương thêm sâu,
Xin báo cho vị sứ nhà vua biết.
Viên sứ được chọn lựa kỹ,
Biết tuần tự trau dồi đức tính.
Lòng lo lắng về cung ứng thuế khoá,
Làm rõ cái khác giữa người hiền và kẻ ngu.
Người cao quý ghét cái tạm bợ,
Kẻ tài giỏi tự suy nghĩ rạch ròi.
Xin tặng ông bài hành hổ dữ,
Ra khỏi thành hãy mang theo lòng thương xót.

Bản dịch của Phạm Doanh

Trung lang sau hồi Kinh khắc đá,
Lối bát phân bỏ xó không sài.
Nung lửa ông Cố đem dùi,
Sức bút tưởng phá tơi bời đất hoang.
Nhớ Khai Nguyên huy hoàng thời đại,
Ông cùng với Hàn, Thái đua tài.
Huyền tông thích lối chữ này,
Cả ba đều được vời ngay vào chầu.
Trát vua nhờ đó lưu truyền lẹ,
Lời tuyên dương không lẽ dối sao.
Ba người cùng lúc bước vào,
Ơn vua ban phát dễ hầu có hai.
Tài ông Cố so vai Hàn, Thái,
Kiểu chữ chân mắt dõi thấy ngay.
Dâng vua, chỉ nội trong ngày
Dày công nghiên cứu, càng hay tay nghề.
Ông cùng tôi bạn bè giao thiệp,
Danh lợi kia chẳng đắp vào tai.
Nghĩ lại năm đã hai mươi,
Trường-an thuở đó vui chơi rượu nồng.
Nhà khanh tướng ta cùng hát đổng,
Dấu văn chùa, sở cũng được trưng.
Đặt tôi ngang với Mã, Dương,
Tới già vẫn giữ lòng thương chẳng rời.
Khi ngựa nòi bỏ rơi một só,
Dây cương vàng tất bỏ đi thôi.
Bàn về bè bạn khôn nguôi,
Tuổi già đâu dám buông xuôi được nào.
Xưa nay việc tào lao lật lọng,
Gặp nhau đây mắt đọng lệ sa.
Hãy nhìn bọn quan lớn kia,
Nào ai có dáng hào hoa nên người.
Tài vừa hết hình hài cũng nát,
Dơ chức quan, bệnh khát gây nên.
Vẫn như xưa các người quen,
Gặp lúc khốn quẫn mới bàn trước sau.
Tôi thân lão bệnh đau đành chịu,
Ông người ôm chí cứu vớt đời.
Áo cơm há phải miệt mài,
Khiến cho sắc mặt kém tươi bội phần.
Đi xa tất gặp thêm đau khổ,
Phải tuân theo ý của đám đông.
Thuyền bè trôi nổi bềnh bồng,
Nuốt người cứ chực, thuồng luồng rượt theo.
Lại còn thêm bao nhiêu giặc nước,
Nhất là cơn gió ngược cản thuyền.
Nơi xa loạn lạc triền miên,
Cứ nổi lên giết quan trên đều đều.
Ông lo các chư hầu gần biển,
Cốt làm sao mọi chuyện được yên.
Dân so với nước là nền,
Cá đói mà nhử mồi ngon, chớ dùng.
Hỏi thăm tới vết thương càng ứ,
Xin báo lên cùng sứ triều đình.
Người này được chọn rất rành,
Biết trau dồi để tính tình càng cao.
Lòng vẫn lo cung cầu chiến phí,
Hiền khác ngu do chỉ đó thôi.
Người ngay ghét chuyện lấy rồi,
Kẻ tài suy nghĩ rạch ròi, phân minh.
Tặng ông bài Mãnh hổ hành,
Lòng đau như cắt rời thành ra đi.
(Năm 768)

Cố Giới Xa 顧誡奢 và Đỗ Phủ từng quen năm 748 khi còn ở Trường An.

[1] Thái Ung (132-192) tự Bá Dê 伯喈, người Trần Lưu thời Đông Hán, giỏi thuật số, thiên văn, âm nhạc và chữ lệ.
[2] Hy bình thạch kinh.
[3] Lối viết chữ lệ do Trịnh Mạc đời Tần đề xướng, sau được kết hợp với lối chữ triện, dùng trong đời Hán như một lối viết dành cho công văn. Như vậy bát phân là lối viết chữ được kết hợp giữa triện và lệ.
[4] Hàn Trạch Mộc và Thái Hữu Lân.
[5] Cố, Hàn, Thái.
[6] Dương Hùng, 揚雄 (53 tr.CN - 18 tr.CN), tự Tử Vân, người gốc Thành Đô (Tứ Xuyên), giỏi về phú.
[7] Mã Dung 馬融 (79-166), tự Quý Trường, người Mậu Lăng, giỏi tứ thư ngũ kinh.
[8] Tên ca khúc trong cổ nhạc phủ. Lời xưa có câu: "Đói không theo hỗ dữ đi kiếm ăn" (Cơ bất tòng mãnh hổ thực).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tống Cố bát phân văn học thích Hồng Cát châu