24/04/2024 20:38Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Quế Lâm tỉnh thành
桂林省城

Tác giả: Ngô Thì Nhậm - 吳時任

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/03/2020 11:04

 

Nguyên tác

桂林見說越王城,
表裏山河四面縈。
地廠重金宜戰守,
天倉群玉足居行。
肩摩人汗揮成雨,
頂起山光睨見星。
未暇名區尋勝跡,
朝天趁緊賦霄征。

Phiên âm

Quế Lâm kiến thuyết việt vương thành,
Biểu lý sơn hà tứ diện oanh.
Địa xưởng trùng kim[1] nghi chiến thủ,
Thiên thương quần ngọc[2] túc cư hành.
Kiên ma nhân hãn huy thành vũ[3],
Đỉnh khởi sơn quang nghễ kiến tinh.
Vị hạ danh khu tầm thắng tích,
Triều thiên sấn khẩn phú tiêu chinh[4].

Dịch nghĩa

Nghe nói Quế Lâm có thành vua Việt,
Sông núi trong ngoài bao bọc bốn bề.
Xưởng đất đúc nên hai lớp thành vàng, đánh và giữ đều tiện,
Kho trời chứa nhiều ngọc báu, đủ dùng cho lúc ở, khi đi.
Vai kề vai nhau, mồ hôi người vẩy ra thành trận mưa xuống,
Sáng loé đỉnh non, ghé nhìn thấy những sao đêm.
Chưa rỗi để tìm thắng tích nơi danh tiếng,
Vì phải vội vào chầu ngâm câu “Đi đêm”.

Bản dịch của Lâm Giang

Nghe nói Quế Lâm có Việt thành,
Trong sông ngoài núi tự vây quanh.
Đắp nên xưởng đất thành vàng chín,
Tạo được kho trời lắm ngọc thanh.
Kề sát vai nhau, mưa xối xuống,
Ghé nhìn sao sáng đỉnh non xanh.
Chưa nhàn thăm cảnh nơi danh tiếng,
Còn vội vào chầu để chế Thanh.
Quế Lâm là một tỉnh lỵ thuộc Quảng Tây.

Nguyên chú: Xét vị trí Việt Tây (Quảng Tây), nước chầu về rất đẹp, thế đất từ Vân Nam đổ xuống, gò đất cao thấp ẩn hiện, đến Quế Lâm, thì núi đất được bóc đi, thay bằng núi đá, đỉnh núi nhọn hoắt như những ngọn lửa bốc lên, trông xa giống như dao, kích dựng đứng thành rừng. Nhánh tả là sông Ly, bắt nguồn từ phương tây bắc, chảy ra đông nam. Nhánh hữu là sông Minh bắt nguồn từ hướng tây nam chảy theo phương đông bắc, đến phương tây nam, đông bắc thì tụ hội ở sông Tầm, chảy xuôi xuống Việt Đông (Quảng Đông), cũng là một nơi đất quý. Hán Vũ Đế đặt ra các quận Thương Ngô, Uất Lâm, nay Thương Ngô là phủ thành châu Ngô; Uất Lâm là tỉnh thành Quế Lâm. Nơi hai con sông Ly và Minh hợp lưu, có thành của nhà vua, tương truyền gọi là thành Sở Vương. Có lẽ không phai nước Sở đời Xuân Thu, phải là nước Sở trong số nước phân tranh sau đời Hán, đời Tấn. Triệu Uý Đà đóng đô ở Phiên Ngung chứ không phải ở đây, tức là ở phủ trị Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông, nay là tỉnh lị [tỉnh Quảng Đông], ở gần giáp Nam Hải để khống chế Bách Việt. Sử nước ta lại nhận Uý Đà làm Việt Vương ký, ngoa truyền sai cả sự thực. Làm sao lại có thể coi chữ Việt 粵 của đất Việt (chỉ Lưỡng Quảng) là chữ Việt 越 chỉ nước Việt ta. Sách Việt sử tiêu án của Tiên công đã liệt Việt Vương ký là ngoại thuộc. Nay ta đích thân đến tận đất này, mới biết là trước tác của sử thật đủ để đính chính lời nói ngoa truyền của ngàn đời vậy.
[1] Hai lớp thành vàng. “Kim” tức “Kim thành” trong thành ngữ “Kim thành thang trì.” Ở đây dùng chữ “trùng kim” để chỉ thành cổ Việt Vương bền vững kiên cố.
[2] Nhiều ngọc báu, ý chỉ của cải trong kho nhà trời rất nhiều vàng ngọc. “Quần ngọc” còn có nghĩa là ở Quế Lâm có nhiều ngọn núi lô nhô đẹp như ngọc quây quần với nhau.
[3] Bắc sử chép: “Nhân kiên ma, xa cốc kích, tụ khí thành vân, huy hãn thành vũ” (Vai người kể nhau, bánh xe chạm nhau, hơi thở tụ lại thành mây, mồ hôi vẩy ra thành mưa). Ý chỉ nơi đô hội.
[4] Đi đêm. Lấy ý từ câu “Túc túc tiêu chinh, Túc dạ tại công” (Tất tưởi ra đi trong đêm khuya, Đêm ngày đều vì việc công) trong thơ Tiểu tinh, Kinh thi. Ý câu này nói tác giả còn bận phải làm gấp việc công để kịp vào chầu vua không thể thăm phong cảnh được.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ngô Thì Nhậm » Quế Lâm tỉnh thành