25/04/2024 15:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Văn tế nghĩa sĩ trận vong

Tác giả: Nguyễn Văn Thành - 阮文誠

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 05/08/2008 23:28

 

Than ôi!
Trời Đông Phố[1] vận ra sóc cảnh[2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô Hà[3] chảy xuống Lương Giang[4], nghĩ mấy kẻ điêu linh[5] từ thuở nọ.

Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
Mới biết mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.

Xót thay!
Tình dưới viên mao[6];
Phận trong giới trụ[7].

Ba nghìn họp con em đất Bái[8], cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ[9], cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.

Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.

Kẻ thời theo cơ đích[10] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non Tây[11] thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao[12] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh dương vây, trong cõi Bắc quyết thu về đất cũ.

Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.

Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh - Thuận[13], đã mấy buổi sơn phong[14] hải lễ[15], trời Cao - Quang[16] soi rõ trí kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn[17], Nam - Ngãi[18] lấy Phú Xuân[19] mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo[20] vân thê[21], đất Lũng - Thục[22] lăn vào nơi hiểm cố.

Phận truy tuỳ gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số?

Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mui thuyền toan cướp giáo giữa đàng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

Hồn tráng sĩ biết bao miền minh mạc[23], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu không vẽ nét gian nan, lấp loé lửa trời soi chừng cổ độ[24].

Ôi!
Cùng lòng trung nghĩa khác số đoản tu[25];
Nửa cuộc công danh chia phần kim cổ.

Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu[26] xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ[27].

Phận dù không gác khói[28] đài mây[29];
Danh đã ngàn cây nội cỏ.

Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường[30];
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ[31].

Vàng thượng đức hồi loan[32] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh[33] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu[34] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.

Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống phồn hoa, chốn tươi chốn ủ.

Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có?

Bản chức nay:
Vâng việc biên phòng;
Chánh miền viễn thú[35].

Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu[36] vung trước gió.

Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ định[37] tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng[38];
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.

Có cảm thông thì đến đó khuyên mời;
Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.

Buổi chinh chiến hoặc còn oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lên dưới, khen thưởng rồi sẽ tấu biểu chương[39] cho;
Hội thăng bình đừng nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu vợ goá con côi, an tập[40] hết, cũng ban tồn tuất[41] đủ.

Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu[42];
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ[43].

Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân[44];
Niềm tôn thân[45] dù sinh tử chớ nề, linh thì hộ cho Hoàng triều bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa rời ngôi bảo tộ[46].

Thượng hưởng!
Bài văn tế này tác giả soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Gia Long (Nguyễn Ánh) với nghĩa quân Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hoá, sau khi bình định xong Bắc Hà. Đây được coi là một áng văn chương tuyệt bút mà Nguyễn Văn Thành đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng: “lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập loè như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm ly như vượn khóc trên ngàn”.

Một số tài liệu cho rằng bài văn tế này do quan thượng thư Vũ Lượng 武量 làm, quận công Nguyễn Văn Thành chủ tế.

[1] Tên cũ thành Gia Định.
[2] Cõi Bắc. “Đông Phố vận ra sóc cảnh” ý nói từ Gia Định ra tới Bắc Hà (Hà Nội).
[3] Tức sông Tuyên, chảy qua Tuyên Quang rồi đổ xuống sông Nhị Hà.
[4] Tức là Phú Lương giang, tên cũ sông Nhị Hà.
[5] Tàn rụng, chỉ những người chẳng may chết trận.
[6] Viên là viên môn, cửa dinh (doanh) quan đại tướng. Mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
[7] Áo giáp, mũ trụ của tướng sĩ.
[8] Hán Cao Tổ khi khởi binh ở ấp Bái, họp con em ba nghìn người. Ở đây ví những người theo đức Gia Long cũng khảng khái như bọn quan sĩ Hán Cao Tổ vậy.
[9] Tên núi ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, có tiếng hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người. Vua Văn Vương nhà Chu sáng nghiệp ở đó. Ở đây sánh những người theo vua Gia Long cũng hăng hái như bọn quân sĩ Chu Văn Vương vậy.
[10] Bậc chân chúa, chỉ vua Gia Long.
[11] Chỉ quân Tây Sơn.
[12] Phủ việt và tiết mao, dùng để làm hiệu lệnh trong quân.
[13] Khánh Hoà và Bình Thuận.
[14] Gió núi. Khi Gia Long đóng ở đảo Côn Lôn, quân Tây Sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão tố, thuyền Tây Sơn đắm cả, vua mới thoát vây.
[15] Nước ngọt ở bể. Khi vua Gia Long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát.
[16] Đây ví vua Gia Long cũng như Hán Cao Tổ và Hán Quang Vũ là hai vua sáng nghiệp và trung hưng nhà Hán.
[17] Kinh đô cũ của người Chiêm Thành, tức là thành Bình Định.
[18] Quảng Nam và Quảng Ngãi.
[19] Huế ngày nay.
[20] Đạn nhiều như mưa.
[21] Thang cao giáp tới mây. “Vũ pháo vân thê” chỉ việc xông pha trận mạc.
[22] Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như Lũng Tây (ở tỉnh Thiểm Tây) và đất Thục (tức Tứ Xuyên) ở Trung Quốc.
[23] Chỗ tối tăm mờ mịt.
[24] Bến đò ngày xưa.
[25] Ngắn dài khác nhau.
[26] Ở đây chỉ đời người ngắn ngủi.
[27] Phổi và tạng phủ.
[28] Tức Lăng Yên các, chỗ Đường Thái Tông Lý Thế Dân cho vẽ hình 24 vị khai quốc công thần.
[29] Tức Vân Đài, nơi Hán Minh Đế cho treo tranh các công thần.
[30] Lá cờ để thêu tên các tướng sĩ có công trận.
[31] Mưa móc, chỉ ơn vua.
[32] Xe loan (tức xa giá nhà vua) trở về.
[33] Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và Thuận Hoá, Nghệ An, Thanh Hoá.
[34] Các năm 1798, 1799, 1800, 1801.
[35] Tuần thú trấn thủ ở phương xa.
[36] Tức áo lông cừu để mặc cho ấm.
[37] Từ chữ “can qua phủ định”, việc đánh dẹp giặc giã vừa yên.
[38] Đồ để dùng trong cúng tế.
[39] Tờ trình để tâu lên vua. Có bản chép là “biểu dương”.
[40] Vỗ về, cho được yên ổn nơi ăn chốn ở.
[41] Tiền của để trợ cấp cho vợ con tử sĩ.
[42] Vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, hai đời vua thái bình, ở đây dùng so sánh với đời vua Gia Long.
[43] Vua Thang vua Vũ, hai đời vua thịnh trị bên Tàu, ở đây dùng so sánh với đời vua Gia Long.
[44] Ý nói nếu sống lại kiếp sau thì nên đến cửa dinh tiền quân mà nhận.
[45] Tôn kính, thân yêu, chỉ tình cảm giữa kẻ còn người mất.
[46] Ý nói nếu có khôn thiêng thì nên phù hộ nhà vua được thái bình để ngôi vua (ngôi bảo tộ) truyền mãi đến muôn đời về sau.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Văn Thành » Văn tế nghĩa sĩ trận vong