30/03/2024 00:51Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tặng Lý bát bí thư biệt tam thập vận
贈李八祕書別三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/04/2015 23:01

 

Nguyên tác

往時中補右,
扈蹕上元初。
反氣淩行在,
妖星下直廬。
六龍瞻漢闕,
萬騎略姚墟。
玄朔回天步,
神都憶帝車。
一戎才汗馬,
百姓免為魚。
通籍蟠螭印,
差肩列鳳輿。
事殊迎代邸,
喜異賞朱虛。
寇盜方歸順,
乾坤欲晏如。
不才同補袞,
奉詔許牽裾。
鴛鷺叨雲閣,
麒麟滯玉除。
文園多病後,
中散舊交疏。
飄泊哀相見,
平生意有餘。
風煙巫峽遠,
台榭楚宮虛。
觸目非論故,
新文尚起予。
清秋凋碧柳,
別浦落紅蕖。
消息多旗幟,
經過歎裏閭。
戰連唇齒國,
軍急羽毛書。
幕府籌頻問,
山家藥正鋤。
台星入朝謁,
使節有吹噓。
西蜀災長弭,
南翁憤始攄。
對揚抏士卒,
乾沒費倉儲。
勢藉兵須用,
功無禮忽諸。
禦鞍金騕褭,
宮硯玉蟾蜍。
拜舞銀鉤落,
恩波錦帕舒。
此行非不濟,
良友昔相于。
去旆依顏色,
沿流想疾徐。
沈綿疲井臼,
倚薄似樵漁。
乞米煩佳客,
鈔詩聽小胥。
杜陵斜晚照,
潏水帶寒淤。
莫話清溪髮,
蕭蕭白映梳。

Phiên âm

Vãng thì trung bổ hữu,
Hỗ tất Thượng Nguyên[1] sơ.
Phản khí lăng hành tại,
Yêu tinh há trực lư.
Lục long chiêm Hán khuyết,
Vạn kỵ lược Diêu Khư[2].
Huyền sóc hồi thiên bộ[3],
Thần đô[4] ức đế xa.
Nhất nhung tài hãn mã,
Bách tính miễn vi ngư.
Thông tịch bàn ly ấn,
Sai kiên liệt phượng dư.
Sự thù nghênh đại để[5],
Hỉ dị thưởng chu hư.
Khấu đạo phương quy thuận,
Càn khôn dục yến như.
Bất tài đồng bổ cổn,
Phụng chiếu hứa khiên cư[6].
Uyên lộ[7] thao vân các,
Kỳ lân trệ ngọc trừ.
Văn viên[8] đa bệnh hậu,
Trung tán[9] cựu giao sơ.
Phiêu bạc ai tương kiến,
Bình sinh ý hữu dư.
Phong yên Vu Giáp viễn,
Đài tạ Sở cung hư.
Xúc mục phi luận cố,
Tân văn thượng khởi dư.
Thanh thu điêu bích liễu,
Biệt phố lạc hồng cừ.
Tiêu tức đa kỳ xí[10],
Kinh qua thán lý lư.
Chiến liên thần xỉ quốc,
Quân cấp vũ mao thư.
Mạc phủ trù tần vấn[11],
Sơn gia dược chính sừ[12].
Thai tinh[13] nhập triều yết,
Sứ tiết hữu xuy hư.
Tây Thục tai trường nhị,
Nam ông phẫn thuỷ sư.
Đối dương ngoan sĩ tốt,
Can một phí thương trừ.
Thế tạ binh tu dụng,
Công vô lễ hốt chư.
Ngự yên kim yểu niểu,
Cung nghiễn ngọc thiềm thừ.
Bái vũ ngân câu lạc,
Ân ba cẩm phách thư.
Thử hành phi bất tế,
Lương hữu tích tương vu.
Khứ bái y nhan sắc,
Diên lưu tưởng tật từ.
Trầm miên[14] bì tỉnh cữu,
Ỷ bạc tự tiều ngư.
Khất mễ phiền giai khách,
Sao thi thính tiểu tư.
Đỗ Lăng tà vãn chiếu,
Duật thuỷ[15] đới hàn ư.
Mạc thoại Thanh Khê[16] phát,
Tiêu tiêu bạch ánh sơ.

Dịch nghĩa

Trước kia trong đám quan hữu bổ khuyết ở trung thư tỉnh,
Vào năm đầu đời Thượng Nguyên đã theo hầu vua.
Cái không khí loạn lạc tràn tới nơi vua đóng tạm,
Sao xấu chiếu thẳng xuống nhà lá dành cho kẻ hầu.
Mặt trời do sáu con rồng kéo ngắm thẳng cung Hán,
Vạn ngựa xe tuần hành quanh Diêu Khư.
Thời vận đang được phục hồi nơi phương bắc,
Chốn kinh đô nhớ đến xe của vua.
Một đạo quân vừa nêu công,
Khiến trăm họ khỏi biến thành cá.
Con ly cong nằm in trên danh sách các quan,
Kề vai được kể bên xe phượng.
Sự việc có khác nhau trong việc phế lập,
Cái vui khác nhau trong việc hưởng lầu son hay nơi vách trống.
Bọn cướp vừa quy thuận, đất trời như được an,
Tôi không có tài nhưng cùng trong đám quan thập di, bổ khuyết.
Theo chiếu vua xin một lòng kéo áo.
Cò vạc xôn xao trong đài mây,
Kỳ lân tắc nghẽn nơi thềm ngọc.
Hiếu Văn viên sau khi mắc nhiều bệnh,
Kê trung tán bị các bạn cũ lánh xa.
Trong cảnh lênh đênh,
Buồn mà gặp lại nhau,
Tuy cuộc sống còn có nhiều điều muốn nói.
Khói gió nơi Vu Giáp xa xôi,
Lâu đài cung Sở trống rỗng.
Cái thấy ngay không phải là bàn về cái xưa kia,
Văn gần đây còn khơi lên nữa sao.
Khí thu trong soi mòn liễu biếc,
Nơi bãi chia tay hoa sen đỏ rụng.
Tin tức thì chỉ có nhiều về cờ xí chiến tranh,
Đi qua những làng mạc thường nghe khóc than.
Cuộc chiến liền ở các vùng chiến lược như môi với răng,
Quân chuyển gấp vì lệnh hành quân ban ra nhiều.
Trong ban tham mưu nhiều lần vấn kế,
Nhà trong núi cày để trồng cây thuốc.
Quan lớn về triều bái yết vua,
Cờ hiệu của quan lớn phất phới.
Loạn lạc vùng Tây Thục được giữ yên lâu dài,
Lòng phẫn uất của ông già nơi miền nam mới giải toả.
Mang quân đối địch thì làm hao tổn binh sĩ,
Làm tiêu cạn lương thực dự trữ trong kho.
Thế có mạnh thì mới nên dùng tới quân đội,
Được việc mà không theo lễ thì sớm tiêu vong.
Yên vàng trên ngựa nòi thuộc vua,
Nghiên mực bằng ngọc trong cung hình con cóc để ông dùng.
Các vũ nữ lễ múa khiến rơi cả trang sức bạc,
Sóng ơn huệ khiến khăn gấm buông chùng.
Chuyến đi này không phải là không tốt,
Các bạn hiền cũ cùng hướng về.
Cánh buồm ra đi hãy giữ nguyên vẻ mặt,
Trôi trên sông tưởng như vun vút.
Ru rú nằm bệnh lâu, còn lo đến việc nhà,
Sống đơn giản gần giống như ông câu cá, chú kiếm củi.
Xin gạo thì thấy ngượng mặt là một người khách quý,
Chép thơ là phải nghe theo lời quan coi về âm nhạc.
Nơi Đỗ Lăng trời chiếu xiên xiên,
Nước sông Duật, đọng bùn lạnh.
Chớ nói tới mái tóc ở Thanh Khê,
Mỗi khi chải ánh bạc cứ loé lên.

Bản dịch của Phạm Doanh

Hữu bổ khuyết trước kia được chức,
Đầu Thượng Nguyên ra sức phò vua.
Nơi vua tạm trú, bụi nhoà,
Yêu tinh xuống thẳng chỗ nhà vua ngơi.
Sáu con rồng cùng soi cửa Hán,
Diêu khư có cả vạn lính ngăn.
Phương bắc vận nước chuyển vần
Kinh đô nhớ xe vua lăn thuở nào.
Một trận ra công đầu hãn mã,
Trăm họ thoát cảnh cá trong thành.
Sổ quan ly hiện rõ hình,
Xe vua lũ lượt vai khênh bước dồn.
Vui không giống: cửa son, vách đất,
Chuyện khác nhau: xếp đặt lên ngôi.
Qui hàng, bọn giặc mới rồi,
Toàn dân đều muốn tung lời ca vang.
Tài tuy kém nhưng cùng bổ nhiệm,
Theo chiếu vua xin nguyện can ngăn.
Gác mây cò vạc chịu ơn,
Nơi thềm ngọc chật kỳ lân đứng chầu.
Văn Viên sau cơn đau bệnh dữ,
Quan trung tán bạn cũ làm ngơ.
Long đong thấy những thẫn thờ,
Cuộc đời ý vẫn còn dư tỏ bày.
Vu Giáp xa, toả đầy khói gió,
Cung Sở vắng, đài tạ điêu tàn.
Xin ghi: chuyện cũ chớ bàn,
Những bài văn mới, viết tràn đi cho.
Liễu biếc rữa khí thu trong sáng,
Sen đò, nơi bến vắng rụng rơi.
Cờ xí phần phật khắp trời,
Trải qua làng xóm nghe lời thở than.
Vùng hiểm yếu cứ lan trận chiến,
Tướng tấp tới gửi điện hành quân.
Tư lệnh vấn kế nhiều lần,
Nhà trong núi, thuốc chuyên cần bón chăm.
Về triều, quan lớn tham gia hội,
Đoàn sứ đi vang dội bốn bên.
Dài ngày, Tây Thục được yên,
Nam ông thấy rõ mới tan lòng sầu.
Đem quân chống, tổn hao binh sĩ,
Khiến kho tàng còn bị trống trơn.
Thế có vững, mới dùng quân,
Thành công, không lễ chóng tàn mà thôi.
Yên vàng trên ngựa nòi đúng gốc,
Nghiên mực hình con cóc được dùng.
Lễ múa móc bạc rớt tung,
Sóng tình khiến khăn gấm chùng tới vai.
Chuyến đi này chớ coi là xấu,
Các bạn xưa nau náu trông nhau.
Buồm trôi hãy giữ nguyên mầu,
Dật dờ mà tưởng vút mau trên dòng.
Đã lắm bệnh thêm công việc vặt,
Sống đơn sơ nào khác tiều, ngư.
Xin gạo ngại khách mặt trơ,
Tuân theo thư ký chép thơ rầy rà.
Đỗ Lăng buổi chiều tà ánh nắng,
Nơi sông Duật bùn lắng thấy ghê.
Chớ bàn mái tóc Thanh Khê,
Lơ thơ loé trắng mỗi khi chải đầu.
(Năm 767)

[1] Niên hiệu đời vua Túc Tông.
[2] Tên vùng thuộc Tây Thành, Hán Trung, lúc đó Túc Tông ở Phụng Tường, gần với Hán Trung. Có bản viết là Quy Khư 媯墟, nơi vua Thuấn nghỉ ngơi.
[3] Do chữ “thiên chi hành bộ” 天之行步, chỉ thời vận, vận nước.
[4] Trường An.
[5] Nơi cư ngụ của Lưu Huyên, con Lưu Bang, được phong là đại vương 代王. Trần Bình, Chu Bột phế thiếu đế, lập đại vương. Sau này từ đại để được dùng chỉ việc phế lập.
[6] Chỉ sự can gián vua không thành. Tân Tị can Nguỵ Văn Đế, Văn Đế không nghe, đứng lên đi vào trong nhà, Tân Tị nắm lấy áo vua giữ lại.
[7] Chỉ các quan, khi chầu vua đứng xếp hàng như đàn cò vạc.
[8] Chỉ Tư Mã Tương Như, được phong làm lệnh ở Hiếu Văn viên.
[9] Kê Khang 嵇康 tự là Thúc Dạ 叔夜, người nước Nguỵ thời Tam Quốc, là một nhà thông thái, có nhiều tài, làm quan tới trung tán đại phu, nghiên cứu Lão, Trang, sở trường loại thơ bốn chữ. Kết bạn với Sơn Đào 山濤, Nguyễn Tịch 阮籍, là một trong Trúc Lâm thất hiền. Sau bị Tư Mã Chiêu giết hại.
[10] Chỉ chiến tranh.
[11] Nguyên chú: “Nguyên soái vùng Sơn Kiếm là Đỗ tướng công (Đỗ Hồng Tiệm) tham khảo sách lược. Tướng công về triều, bây giờ là lần thứ hai.“
[12] Nguyên chú: “Quan bí thư ở trong núi thuộc Thanh Thành 青城”.
[13] Sao Tam Thai, nói về người, tức là tam công, chỉ người giữ chức vụ lớn.
[14] Ý thức hôn mê vì nằm liệt bệnh từ lâu.
[15] Cũng gọi là Thẩm thuỷ 沈水, là một trong tám sông vùng Quan Trung, phát nguyên từ huyện Trường An, Thiểm Tây.
[16] Thuộc Gia Châu, huyện Kiền Vi, Tứ Xuyên, trong vùng núi Nga My.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tặng Lý bát bí thư biệt tam thập vận