24/04/2024 23:38Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Truy tán Pháp Vân tự Tì-ni-đa-lưu-chi thiền sư
追讚法雲寺毘尼多流支禪師

Tác giả: Lý Thái Tông - 李太宗

Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Lý
Đăng bởi Vanachi vào 15/06/2008 11:26

 

Nguyên tác

創自南來國,
聞君久習禪。
應開諸佛信,
遠合一心源。
皎皎楞枷月,
芬芬般若蓮。
何時臨面見,
相與話重玄。

Phiên âm

Sáng tự[1] Nam lai quốc,
Văn quân cửu tập thiền.
Ứng khai chư Phật tín,
Viễn hợp nhất tâm nguyên.
Hạo hạo Lăng Già nguyệt,
Phân phân Bát Nhã liên.
Hà thời lâm diện[2] kiến,
Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch nghĩa

Lần đầu đến nước Nam,
Được biết người am hiểu rất sâu sắc đạo Thiền.
Nên đã mở rộng giáo lý của các phật,
Khiến người đời sau hoà hợp được với cội nguồn chữ tâm.
Trăng Lăng Già sáng vằng vặc,
Sen Bát nhã ngát hương thơm.
Bao giờ được gặp mặt nhau,
Để cùng đàm luận về lý lẽ vô cùng huyền diệu.

Bản dịch của (Không rõ)

Mở lối nước Nam đến,
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tín,
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng Già sáng rỡ,
Hoa Bát Nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt,
Cùng nhau bàn đạo huyền.
Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, sư lại sang Đông Nam. Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân đến khi viên tịch. Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) làm bài kệ truy tán này phong tặng sư.

[1] Hoàng Việt thi tuyển chép là “sáng tự”, có bản chép là “phi tích”. Tích tức là gậy tích trượng của nhà sư thường cầm. Phi tích ý nói nhà sư cầm tích trượng đi du hành.
[2] Hoàng Việt thi tuyển chép là “lâm diện”, có bản chép là “tái đắc”.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Thái Tông » Truy tán Pháp Vân tự Tì-ni-đa-lưu-chi thiền sư