25/04/2024 15:20Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đề Tam Hương dịch
題三鄉驛

Tác giả: Lý Lộng Ngọc - 李弄玉

Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 17/03/2014 09:48

 

Nguyên tác

昔逐良人西入關,
良人身歿妾身還。
謝娘衛女不相待,
為雨為雲歸此山。

Phiên âm

Tích trục lương nhân tây nhập quan[1],
Lương nhân thân một thiếp thân hoàn.
Tạ nương vệ nữ bất tương đãi,
Vi vũ vi vân quy thử san.

Dịch nghĩa

Xưa theo chồng đi phía tây làm lính thú ở cửa ải,
Chồng chết, thiếp về quê cũ.
Cảm ơn các bạn gái đã giúp đỡ, nay không còn ở bên nhau,
Sẽ làm mây làm mưa quay về núi này.

Bản dịch của Nguyễn Minh

Ngày xưa đó chồng tôi nhập ải
Chồng chết rồi tôi phải về quê
Cảm ơn bạn giúp mọi bề
Mây mưa núi cũ làng quê nhớ hoài
Tam Hương là tên một quán dịch, nay ở chân núi Nhược Da, phía nam huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Thiếu phụ có chồng đi lính thú nơi biên ải chết trận, bà về nhà cha mẹ đẻ. Bạn gái đưa về tới quán dịch này, bà làm bài này để cảm ơn và chia tay.

Sách "Hương diễm tùng thư" 香艷叢書 đời Thanh chép rằng tác giả có viết dưới bài thơ do văn chương không phải việc của nữ nhân, nên không đề tên, nhưng có để lại mấy câu "Tính nhị cửu hạ phụ hậu, ngọc vô hà biện vô thủ, Kinh Sơn thạch vãng vãng hữu" 姓二九下父後,玉無瑕弁無首,荊山石往往有. Dựa vào đây, Lý Thư 李舒 giải rằng: "nhị cửu" là mười tám, tức "thập bát" 十八, ghép lại là chữ "mộc" 木; "phụ hậu" là con, tức chữ "tử" 子; "mộc hạ tử" tức chữ "lý" 李; "ngọc vô hà" tức chữ "ngọc" bỏ nét chấm còn lại chữ "vương" 王; "biện vô thủ" tức chữ "củng" 廾; "vương hạ củng" là chữ "lộng" 弄; núi Kinh Sơn có nhiều "ngọc" 玉. Do đó đoán tên tác giả là Lý Lộng Ngọc 李弄玉.

[1] Tức cửa ải Hàm Quan trọng yếu của kinh đô Trường An.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Lộng Ngọc » Đề Tam Hương dịch