Lời dẫn: Sát án Quảng Bình" 按察廣平 (Thơ làm trong thời kỳ làm án sát Quảng Bình).
[1] Đám mây xa, chỉ nhìn cảnh nhớ người. Lấy ý từ chữ "Vị Bắc" 渭北, "thiên thụ" 天樹. Thơ "Xuân nhật ức Lý Bạch" 春日憶李白 của Đỗ Phủ có câu: "Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân" 渭北春天樹,江東日暮雲 (Cây xuân Vị Bắc xanh rờn, Giang Đông chiều tối mây ngàn thênh thênh - Trần Trọng Kim dịch).
[2] Sao trên trời. Ở đây ý chỉ nhìn sao trời mà nhớ nơi bạn ở. Thơ Trương Hựu 張祜 bài "Đề Kim Lăng độ" 題金陵渡 đêm trọ bên gác nhỏ ở bến Kim Lăng, nghe tiếng nước thuỷ triều rào rạc rầm rì, nhìn sao trời mà nhớ quê hương xa xôi:
Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý,
Lưỡng tam tinh hoả thị Qua Châu.
金陵津渡小山樓,
一宿行人自可籌。
潮落夜江斜月裏,
兩三星火是瓜州。
(Kim Lăng quán nhỏ bến giang đầu,
Đêm trọ khách xa chớm mối sầu.
Ngóng nước triều dâng trăng chếch bóng,
Sao mờ lấm tấm ấy Qua Châu.)
[3] Tên khúc hát lúc chia tay. Chỉ cảnh bịn rịn chia tay. Lấy ý từ bài thơ "Vị thành khúc" 渭城曲 (Khúc hát ở thành Vị) của Vương Duy.
[4] Chỉ chuyện nhớ bạn, sự đợi chờ nhớ nhung vì xa cách hai nơi... Trung Quốc vào thời Lục triều, dân gian lưu truyền thể thơ nhạc phủ. Thơ văn viết theo thể thơ này thường dùng để hát. Vì thời đó chiến tranh liên miên nên thông thường thơ nhạc phủ hay miêu tả phong cảnh vùng Yên 燕, Kế bắc 薊北, Liêu tây 遼西 và nỗi nhọc nhằn của binh lính cũng như sự buồn đau, thương nhớ người chồng đi lính phương xa của người chinh phụ.
Dữu Tín 庾信 (513-581), Giang Tổng 江總 (519-594) và Từ Lăng 徐陵 (507-583) là những thi nhân lưu lạc nổi tiếng vào thời này. Bài "Xuất tự Kế Bắc môn hành" 出自薊北門行 của Từ Lăng có câu: "Kế bắc liêu trường vọng, Hoàng hôn tâm độc sầu" 薊北聊長望,黃昏心獨愁 (Nói đến và nhớ về Kế Bắc, Một mình tối lại đọng mối sầu). Bài "Yên ca hành" 燕歌行 của Dữu Tín có câu: "Hàn nhạn ung ung độ Liêu thuỷ, Tang diệp phân phân lạc Kế môn" 寒雁邕邕渡遼水,桑葉紛紛落薊門 (Nhạn bay vần vũ nơi vùng mây nước Liêu tây, Lá dâu tằm rơi lả tả nơi đất Kế Bắc). Bài "Khuê oán thiên" 閨怨篇 của Giang Tổng có câu: "Liêu Tây thuỷ đống xuân ưng thiểu, Kế bắc hồng lai lộ kỷ thiên" 遼西水凍春應少,薊北鴻來路幾千 (Trời chưa tới mùa xuân, nước non vùng Liêu tây còn băng giá, Nhạn bay từ Kế bắc về xa ngút ngàn trùng).
[5] Sông Gianh ở tỉnh Quảng Bình.
[6] Thành Động Hải, thành Quảng Bình.