27/04/2024 06:34Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đàm sơn nhân ẩn cư
覃山人隱居

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Phụng Hà vào 18/11/2008 03:57

 

Nguyên tác

南極老人自有星,
北山移文誰勒銘。
征君已去獨松菊,
哀壑無光留戶庭。
予見亂離不得已,
子知出處必須經。
高車駟馬帶傾覆,
悵望秋天虛翠屏。

Phiên âm

Nam cực lão nhân tự hữu tinh,
Bắc sơn di văn[1] thuỳ lặc minh.
Trưng quân[2] dĩ khứ độc tùng cúc,
Ai hác vô quang lưu hộ đình.
Dư kiến loạn ly bất đắc dĩ,
Tử tri xuất xử tất tu kinh.
Cao xa tứ mã đới khuynh phúc,
Trướng vọng thu thiên hư thuý bình.

Dịch nghĩa

Ông già nơi vùng cực nam chính ông là một ngôi sao,
Bài văn "Bắc sơn di" ai khắc thành bia?
Trưng quân đã ra đi, nay chỉ còn lại thông với cúc,
Hang buồn không có ánh sáng chiếu tới sân nhà.
Tôi nhận ra rằng loạn lạc là điều chẳng đặng đừng,
Và bác hiểu lẽ làm quan hay ở ẩn, tất nhiên cần theo quy định.
Xe cao có ngựa tứ kéo còn bị nghiêng lật,
Cứ ngóng trời thu như hiện cả một bức màn xanh hoang vắng.

Bản dịch của Phạm Doanh

"Ông già mỏm nam" đúng tên sao,
"Văn xa núi Bắc" ai khắc sâu.
Hang vắng làm cho nhà cửa tối,
Vua vời đã để cúc tùng rầu.
Tôi thấy loạn ly, điều chẳng đặng,
Bác rành xuất xử, ắt kinh cầu.
Xe sang, ngựa quý còn nghiêng đổ,
Màn xanh trống rỗng, ngóng trời thu.
(Năm 767)

[1] Tên bài văn biền ngẫu của Khổng Trĩ Khuê 孔稚圭. Bắc sơn là tên gọi khác của núi Chung sơn 鐘山 hoặc Tử Kim sơn 紫金山. Thời Tam Quốc, Tôn Quyền vì kiêng tên ông tổ mình, cho đổi tên núi thành Tưởng sơn 蔣山. Núi tại Nam Kinh, Giang Tô. Lã Hướng 呂向 giải thích nguồn gốc bài văn Bắc sơn di văn: "Trước kia có Chu Nhan Luân 周彦倫 ở ẩn núi Chung sơn, sau đó theo chiếu vua gọi về, cử giữ chức lệnh của huyện Hải Diêm. Nay Khổng Trĩ Khuê khi đi ngang qua vùng núi này, mượn cái uy linh của núi viết bài Bắc sơn di văn" (di là một thể loại văn mà các quan phủ huyện thường trao đổi với nhau, cũng tương tự như hịch). Trong bài văn đó có câu: "Chung sơn chi anh, thảo đường chi linh, trì yên dịch lộ, lặc di sơn đình" 鍾 山之英,草堂之靈,馳烟驛路,勒移山庭 (Núi Chung huy hoàng, nhà cỏ linh thiêng, rong ruổi đường khói, nhà núi ghi chương). Khổng Trĩ Khuê (447-501) là chuyên lối biền ngẫu nước Tề thời Nam triều, còn có tên là Khổng Khuê, tự Đức Chương 德璋, người vùng Sơn Âm, Cối Kê, nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang.
[2] Người ở ẩn, được vua mời ra làm quan.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Đàm sơn nhân ẩn cư