06/10/2024 18:01Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/05/2015 22:26
Nguyên tác
南國調寒杵,
西江浸日車。
客愁連蟋蟀,
亭古帶蒹葭。
不返青絲鞚,
虛燒夜燭花。
老翁須地主,
細細酌流霞。
Phiên âm
Nam quốc điều hàn xử,
Tây giang tẩm nhật xa.
Khách sầu liên tất suất,
Đình cổ đới kiêm hà.
Bất phản thanh ti khống,
Hư thiêu dạ chúc hoa.
Lão ông tu địa chủ,
Tế tế chước lưu hà[1].Dịch nghĩa
Vùng nam tiếng chày có khắc hình vang lên lanh lảnh,
Sông phía tây phơi dưới ánh xe trời.
Khách buồn rầu theo với tiếng dế kêu,
Quán cũ cạnh ao hoa sen.
Không nghịch lại với mầu xanh của cái ràm ngựa,
Là cái ngọn đuốc đêm thừa.
Ông già nên trở thành người chủ đất,
Cứ nhâm nhi chuốc chén ráng chảy.Bản dịch của Phạm Doanh
Vùng nam chày kêu vang,
Sông tây mặt trời ló.
Theo tiếng dế, khách buồn,
Cạnh hoa sen, đình cũ.
Đuốc đêm, sáng bằng thừa,
Tơ xanh, ràm không tỏ.
Chủ đất, lão già mong,
Rượu nồng chuốc nghiêng ngả.
(Năm 768)
[1] Hạng Mạn Đô 項曼都 theo học phép tu tiên, sau đó theo tiên lên trời, miệng khát muốn uống, được vị tiên cho uống một chén lưu hà. Uống một chén là khỏi khát mấy tháng, sau đó trở lại cõi người, người đời gọi là “xích tiên” 斥仙 (vị tiên bị thải hồi). Sau này dùng để chỉ rượu.