30/03/2024 05:53Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tương giang dạ bạc
湘江夜泊

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 24/07/2005 03:38

 

Nguyên tác

一去六十里,
悠悠江水長。
浮雲連五嶺,
明月會三湘。
別浦分新色,
遥空失故鄉。
鶴來人不見,
晚樹鬱滄滄。

Phiên âm

Nhất khứ lục thập lý,
Du du giang thuỷ trường.
Phù vân liên Ngũ Lĩnh[1],
Minh nguyệt hội Tam Tương[2].
Biệt phố phân tân sắc,
Dao không thất cố hương.
Hạc lai[3] nhân bất kiến,
Vãn thụ uất thương thương[4].

Dịch nghĩa

Đi một mạch sáu mươi dặm,
Nước sông chảy dài dằng dặc.
Mây nổi nối liền dãy Ngũ Lĩnh,
Trăng sáng tụ lại vùng Tam Tương.
Phố xa chia sắc đẹp mới,
Trời vòi vọi làm mất cố hương.
Hạc trở lại nhưng không thấy người cưỡi hạc,
Cây buổi tối chứa lạnh lẽo.

Bản dịch của Quách Tấn

Một đi sáu mươi dặm
Dòng cuộn nước mênh mang
Mây giăng liền Ngũ Lãnh
Trăng ngập tràn Tam Tương
Bến tiễn chia xuân sắc
Trời xa lấp cố hương
Hạc về người chẳng thấy
Cây biếc lạnh ngàn sương
[1] Dãy núi cao năm ngọn chạy giáp địa phận hai tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây.
[2] Tương giang bắt nguồn từ Quảng Tây chảy theo hướng đông bắc vào tỉnh Hồ Nam, lúc đầu hợp với Ly thuỷ gọi là Ly Tương, sau hợp với Tiêu thuỷ thành Tiêu Tương, rồi chảy lên phía bắc huyện Hành Dương hợp với Chưng thuỷ gọi là Chưng Tương (cho nên gọi là Tam Tương), sau chảy đến Trường Sa, vào hồ Động Đình.
[3] Nhắc tích ông Phí Văn Huy cỡi hạc vàng lên tiên ở lầu Hoàng Hạc, lầu này ở phía tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, gần vùng Tương Giang.
[4] Lạnh lẽo. Có bản chép là “thương” 蒼 (xanh).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Tương giang dạ bạc