25/04/2024 14:53Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nhân tự Bắc Ninh lai, ngôn Bắc Ninh sự cảm tác
人自北寧來言北寧事感作

Tác giả: Nguyễn Văn Siêu - 阮文超

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hảo liễu vào 30/12/2014 22:38

 

Nguyên tác

怪事怪事不忍聞,
白畫殺人全家去。
軍吏過者顧之他,
鄉里藏匿不敢語。
語者十人無一生,
家家灰盡成飛絮。
捉人官道如深山,
往來星散無人拒。
讎者索錢復殺之,
人家牛酒日厭飫。
朝夕橫行圍里閭,
府縣衙邊辰散處。
頃刻連破二三村,
驚惶走散老兒女。
太甚弗獲已之官,
尋復一空軸與杼。
嗚呼!嗚呼!北寧民,
一望平原無險阻。
朝廷威德與天齊,
天下東西咸安居。
湖為乎一方鴻雁長悲鳴,
偷生爾田狐及野鼠。
一婦含冤六月霜,
況乃連年填溝淤。
千里門門不盡聞,
宜乎春來疾風與疾暑。
早挽三軍西塞回,
看爾逋誅何處所。
願言守土急為謀,
勿使聞者徒憂慮。
滴遛不塞為頹波,
大火燎原纔一炬。

Phiên âm

Quái sự, quái sự, bất nhẫn văn,
Bạch trú sát nhân toàn gia khứ.
Quân lại quá giả cố chi tha,
Hương lý tàng nặc bất cảm ngữ.
Ngữ thập nhân vô nhất sinh,
Gia gia hôi tân thành phi nhứ.
Tróc nhân quan đạo như thâm sơn,
Vãng lai tinh tán vô nhân cự.
Thù giả sách tiền phục sát chi,
Nhân gia ngưu tửu nhật yêm ứ.
Triêu tịch hoành hành vi lý lư,
Phủ huyện gia biên thời tán xử.
Khoảnh khắc liên phá nhị tam thôn,
Kinh hoàng tẩu tán lão nhi nữ.
Thái thậm phất hoạch dĩ chi quan,
Tầm phục nhất không trục dữ trữ.
Ô hô! Ô hô! Bắc Ninh dân,
Nhất vọng bình nguyên vô hiểm trở.
Triều đình uy đức dữ thiên tề,
Thiên hạ đông tây hàm an cư.
Hồ vi hồ nhất phương hồng nhạn trường bi minh,
Du sinh nhĩ điền hồ cập dã thử.
Nhất phụ hàm oan lục nguyệt sương[1],
Huống nãi liên niên điền câu ứ.
Thiên lý môn môn bất tận văn,
Nghi hồ: Xuân lai tật phong dữ tật thử.
Tảo vãn tam quân tây tái hồi,
Khan nhĩ bô tru hà xứ sở.
Nguyện ngôn thủ thổ cấp vi mưu,
Vật sử văn giả đồ ưu lự.
Trích lưu bất tái vi đồi ba,
Đại hoả liêu nguyên, tài nhất cự.

Dịch nghĩa

Việc quái lạ, việc quái lạ! Không nỡ nghe!
Giữa ban ngày mà giết cả nhà người ta.
Quan quân qua đó cũng ngó lơ đi chỗ khác
Hương lý thì giấu diếm đi không dám nói.
Hễ nói ra thì mười người không còn một
Nhà nào nhà nấy bị đốt ra tro, đều bị hoá ra tàn mà bay đi hết
Chúng nó bắt người giữa đường cái như trong rừng sâu.
Chúng tự do qua lại trong làng, không ai chống cự.
Thù ai thì chúng cướp cả của, giết cả người.
Trong nhà người ta, chúng nó mổ trâu đánh chén, lần lửa ở lại ngày này qua ngày khác.
Buổi mai cũng như buổi chiều, chúng nó làm ngang, vây lấy các làng.
Lúc bấy giờ các quan phủ huyện ở gần đã cùng nha lại chạy trốn mỗi người một phương.
Chỉ trong giây lát mà lũ giặc cướp kia phá hết hai ba làng đi liền.
Trai, gái, trẻ, già chẳng còn hồn nào nữa, xô đạp nhau mà chạy quàng, chạy hoảng.
Cực chẳng đã mới chạy lên quan mà thưa (biết đâu quan đã chạy trước mình).
Lúc ở quan về thì hỡi ơi cơ nghiệp, máy cửi bỏ không.
Này dân Bắc Ninh! Dân Bắc Ninh!
Chỗ xưa núi non sầm uất, nhà cửa chập chùng bây giờ chỉ còn là đồng bằng, còn gì hiểm trở nữa đâu!
Triều đình uy đức bằng trời
Thiên hạ bốn phương đều được an ổn
Sao mà riêng một phương này dân thì như chim hồng,chim nhạn mãi mãi kêu sầu.
Mà lũ giặc cướp kia thì như chuột nội, chồn đồng cứ lén lút mà sống dai để làm hại dân trời!
Xưa một người đàn bà bị oan mà tình oan còn động đến trời, đương tháng sáu mà sương rơi xuống
Huống gì luôn mấy năm nay, thây ma lấp đầy rãnh, đấy mương,
Cung điện của nhà vua ở cách xa muôn dặm, làm sao mà nghe biết hết cả?
Có lẽ vì thế: Đương tiết xuân lại có cái nắng gay gắt và cái gió nồng nực như thế này.
Sớm muộn rồi đây, ba quân đóng ở ải tây cũng sẽ kéo về.
Để rồi xem chúng chạy đi đâu cho khỏi chết.
Xin nhắn những ai có chức vụ giữ gìn đất nước phải toan tính làm sao gấp gấp.
Đừng để cho người nghe mà luống buồn!
Một cái lỗ mội nhỏ xíu ở bờ đê mà không lấp ngay, sẽ làm cho sóng mạnh tuôn vào
Và cái sức lửa dữ dội cháy cả ruộng đồng kia nguyên cũng tại vì một chút tàn đuốc mà xẩy ra đấy!

Bản dịch của Nguyễn Văn Đề

Tin đâu chẳng nở nghiêng tai,
Ban ngày giết sạch nhà ai cả nhà.
Quan quân qua đó ngó qua,
Lý hương biết đó dám đà hở môi.
Hở ra mười mạng mất mười,
Nhà nhà lửa dậy, một trời tàn bay
Như trong rừng rậm, truông dày
Người đi đường cái trói vày, bắt ngang!
Thong dong vào xã, ra làng,
Đã gan cướp của, lại gan giết người!
Trâu người mổ thịt chén chơi,
Nhà người cứ ở nay mai mặc lòng.
Quanh miền vây bủa một vòng,
Các quan phủ huyện đã đông khỏi thành.
Mấy làng một phút tan tành,
Gái, trai già trẻ thất kinh chạy dài.
Đi quan, quan vắng kêu ai?
Về nhà trở lại kêu trời nhà không.
Này dân tỉnh Bắc dậy trông,
Vẻ xưa cẩm tú, non sông thôi rồi.
Triều đình uy đức bằng trời,
Đông tây nam bắc nơi nơi thái bình.
Cớ chi riêng một vùng mình,
Để chi hồng nhạn thất thanh kêu sầu?
Để chi chuột, cáo bấy lâu,
Trong hang lén lút ngoi đầu làm hung!
Riêng oán chút phận má hồng,
Một ngày mạng bạc, ba đông nắng vàng.
Phương chi loạn mấy năm trường,
Biết bao xương máu lấp đường, đầy khe.
Chín trùng thăm thẳm có nghe,
Trời xuân sao có nóng kia lạnh này?
Rồi đây chẳng chóng thì chầy,
Ba quân đồn trú ải tây kéo về.
Thử xem lũ giặc giã kia,
Cao bay xa chạy được đi đằng nào?
Nhờ trang hào kiệt lo mau,
Sao cho đừng để ầu sầu người nghe
Đừng khinh việc nhỏ không dè,
Cháy rừng tàn đuốc, vỡ đê hang trùn!
Bài này tả nạn giặc cướp ở Bắc Ninh, chúng giết người, đốt nhà, lấy của, hoành hành giữa ban ngày, giữa đường cái, không ai dám chống cự, lính tráng nha lệ cũng phải lảng tránh, nhân dân lên kêu quan sở tại, lại bị bọn quan nha nhũng nhiễu vơ vét một lần nữa. Trước tình trạng đó, quan địa phương không biết lo tính, nhà vua cũng ở xa chẳng hay, thật là khổ cực cho dân.

[1] Dưới triều Hán Tuyên Đế tại quận Đông Hải có người dân hiền là Trương thị, theo sách Nữ phạm, thờ mẹ già rất hiếu. Chồng chết vẫn không chịu cải giá, quyết ở vậy nuôi mẹ tới già. Bà mẹ bảo rằng ta đã già rồi không lẽ cứ sống dai vậy mà làm khổ cái đời trẻ trung, đẹp đẽ của con? Rồi bà tự vẫn, con gái bà vu cho Trương thị giết mẹ. Vu công làm ngục lại biết rõ đầu đuôi minh oan cho Trương thị song không được, rốt cuộc nàng bi rơi đầu dưới lưỡi kiếm bất công của quan quận thú. Từ đó trong quận hạn đến ba năm. Quan quận thú cũ đổi đi, quan quận thú mới đổi lại, Vu công thưa rằng vì quan thái thú trước giết oan Trương thị nên mới mất mưa lâu thế. Vị thái thú cho làm chay và dựng bia cho nàng, tức thì trời đương nắng vàng bỗng rơi mưa ngọc. Điển người đàn bà bị oan theo sách Nữ phạm là vậy, xét ra không thấy nói gì đến việc tháng sáu có sương. Có lẽ cụ Phương Đình đọc quá nhiều sách nên nhớ lộn điểu trên với điển này chăng? Trâu Diễn nhà Chu thờ vua Huệ Vương nước Yên rất trung thành, các quan tả hữu nói dèm sao đó mà Trâu Diễn bị hạ ngục. Họ Trâu đêm ngày ngửa mặt lên trời kêu khóc. Chắc tình oan động đến trời nên đương tháng sáu mà trời có sương lẽ ra tháng 9 mới có!

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Văn Siêu » Nhân tự Bắc Ninh lai, ngôn Bắc Ninh sự cảm tác