20/04/2024 09:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bành Nha hành
彭衙行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 12/06/2005 15:47

 

Nguyên tác

憶昔避賊初,
北走經險艱。
夜深彭衙道,
月照白水山。
盡室久徒步,
逢人多厚顏。
參差谷鳥吟,
不見遊子還。
痴女飢咬我,
啼畏虎狼聞。
懷中掩其口,
反側聲愈嗔。
小兒強解事,
故索苦李餐。
一旬半雷雨,
泥濘相牽攀。
既無御雨備,
徑滑衣又寒。
有時經契闊,
竟日數裡間。
野果充餱糧,
卑枝成屋椽。
早行石上水,
暮宿天邊煙。
少留同家窪,
欲出蘆子關。
故人有孫宰,
高義薄曾雲。
延客已曛黑,
張燈啟重門。
暖湯濯我足,
剪紙招我魂。
從此出妻孥,
相視涕闌干。
眾雛爛熳睡,
喚起沾盤飧。
誓將與夫子,
永結為弟昆。
遂空所坐堂,
安居奉我歡。
誰肯艱難際,
豁達露心肝。
別來歲月周,
胡羯仍構患。
何時有翅翎,
飛去墮爾前?

Phiên âm

Ức tích tỵ tặc sơ,
Bắc tẩu kinh hiểm gian.
Dạ thâm Bành Nha đạo,
Nguyệt chiếu Bạch Thuỷ[1] sơn.
Tận thất cửu đồ bộ,
Phùng nhân đa hậu nhan.
Sâm si cốc điểu ngâm,
Bất kiến du tử hoàn.
Si nữ cơ giảo ngã,
Đề uý hổ lang văn.
Hoài trung yểm kỳ khẩu,
Phản trắc thanh dũ sân.
Tiểu nhi cưỡng giải sự,
Cố sách khổ lý xan.
Nhất tuần bán lôi vũ,
Nê nính tương khiên phan.
Ký vô ngự vũ bị,
Kính hoạt y hựu hàn.
Hữu thì kinh khế khoát[2],
Cánh nhật sổ lý gian.
Dã quả sung hầu lương,
Ty chi thành ốc chuyên.
Tảo hành thạch thượng thuỷ,
Mộ túc thiên biên yên.
Thiểu lưu Đồng Gia[3] oa,
Dục xuất Lô Tử[4] quan.
Cố nhân hữu Tôn tể[5],
Cao nghĩa bạc tằng vân.
Diên khách dĩ huân hắc,
Trương đăng khải trùng môn.
Noãn thang trạc ngã túc,
Tiễn chỉ chiêu ngã hồn[6].
Tòng thử xuất thê noa,
Tương thị thế lan can.
Chúng sồ lạn mạn thuỵ,
Hoán khởi triêm bàn tôn.
Thệ tương dữ phu tử,
Vĩnh kết vi đệ côn.
Toại không sở toạ đường,
An cư phụng ngã hoan.
Thuỳ khẳng gian nan tế,
Khoát đạt lộ tâm can?
Biệt lai tuế nguyệt chu,
Hồ kiết nhưng cấu hoạn.
Hà thì hữu sí linh,
Phi khứ đoạ nhĩ tiền.

Dịch nghĩa

Nhớ xưa khi tránh giặc
Chạy lên miền bắc, trải bao hiểm nghèo
Đêm khuya trên đường Bành Nha
Trăng soi đỉnh núi Bạch Thuỷ
Cả nhà trong bao ngày lếch thếch lang thang
Gặp người, nhiều lúc thấy ngượng mặt
Chim trong hang thủng thẳng kêu dài
Người đi xa vẫn chẳng thấy trở lại
Con bé ngây thơ đói cứ ta mà cắn
Không dám làm nó khóc vì sợ hùm, sói nghe
Ấp vào lòng, bịt mồm nó lại
Nó càng trằn trọc, gào thét to hơn
Thằng anh nó làm ra vẻ khôn biết
Cố đòi mận đắng ăn thay cơm
Trong một tuần thì một nửa những mưa cùng sấm
Dắt díu nhau lặn lội trong bùn lầy
Đã chẳng có gì che mưa
Đường thì trơn, áo lại không đủ ấm
Có khi qua bao khó nhọc
Cả ngày đi được độ vài dặm đường
Quả rừng thay lương khô
Cành cây là thành nhà ở
Sớm lội nước trên khe đá
Tối nằm sương nơi ven trời
Nán lại ít bữa ở trũng Đồng Gia
Định ra cửa ải Lô Tử
Cố ông Tôn tể, chỗ quen biết cũ
Vốn là người nghĩa khí ngất trời
Mời khách vào nhà, trời đã tối
Liền giong đèn, mở hai lần cửa
Lấy nước nóng cho rửa chân
Cắt giấy dán để hú vía
Chủ khách bèn giới thiệu vợ con
Nhìn nhau, ai nấy giọt dài giọt ngắn
Lũ trẻ ngủ lay lắt
Gọi dậy, sẵn mâm cơm cho ăn
Thề từ đây cùng bác
Kết nghĩa mãi mãi làm anh em
Liền cho dọn dẹp nơi nhà khách
Dành riêng cho ta ở được thảnh thơi
Dễ mấy ai trong bước gian nan
Tỏ được tấm lòng rộng rãi như bác!
Chia tay đã tròn một năm rồi
Giặc Hồ vẫn còn quấy rối
Ước gì mọc lông cánh
Bay đến đỗ trước mặt bác.

Bản dịch của Lang Xet Tu @www.maihoatrang.com

Nhớ lại lúc chạy loạn,
Lên bắc, bao hiểm nghèo!
Đêm Bành Nha khuya khoắt,
Đỉnh Bạch Thủy trăng treo!
Cả nhà đi lếch thếch,
Gặp người mặt những ê.
Thanh thót chim hang gọi,
Người xa chưa thấy về.
Con bé đói cắn cha,
Khóc sợ hùm beo biết.
Ôm vào lòng, bịt mồm,
Giãy giụa càng la thét.
Thằng cu ra điều biết,
Đòi mận đắng thay cơm.
Một tuần, nửa mưa gió,
Dắt díu trong bùn lầm.
Chẳng có gì che mưa,
Đường trơn, áo lại rét.
Có lúc đi đứt hơi,
Ngày vài dặm lê lết.
Lương ăn là quả dại,
Nhà ở là cây rừng.
Sớm, khe đá lội nước.
Tối, đất lạ nằm sương.
Ở tạm trũng Đồng Gia,
Lô Tử quan định ra.
Có Tôn tể, bạn cũ,
Nghĩa khí thực cao xa.
Khách đến lúc chập tối,
Giong đèn mở cửa toang.
Nước nóng cho rửa ráy,
Cắt giấy để chiêu hồn.
Rồi gọi vợ con đến,
Nhìn nhau dòng lệ tuôn.
Lũ trẻ ngủ lay lắt,
Gọi dậy sẵn mâm cơm.
Thề từ nay với bác,
Mãi mãi là anh em.
Liền xếp dọn nhà khách,
Dành cho ta ở yên.
Mấy ai trong gian nan,
Đã tỏ lòng rộng rãi?
Xa nhau kể năm rồi,
Giặc Hồ quấy rối mãi.
Ước gì có cánh lông,
Bay đến đỗ trước bác.
(Năm 757)

Bành Nha ở phía đông bắc huyện Bạch Thuỷ, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay, nơi Đỗ Phủ đi qua khi đem gia quyến chạy loạn lên miền bắc (756).

[1] Núi ở huyện Bạch Thuỷ, gần Bành Nha.
[3] Có lẽ ở vào khoảng giữa Bành Nha và Phu Châu, nơi gia đình Đỗ Phủ ở. Có bản chép là “Chu Gia” 周家.
[4] Ở phía bắc Diên An ngày nay.
[5] Có thể là bạn của Đỗ Phủ, từng làm chức huyện tể.
[2] Có bản chép: “Hữu thì tối khế khoát” 有時最契闊.
[6] Vì đi đường gặp nhiều sự lo lắng, sợ hãi, nên khi đến chỗ nghỉ ngơi, theo tục địa phương bấy giờ, người ta dùng giấy, viết chữ, dán lên cửa để hú vía.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Bành Nha hành