27/04/2024 03:13Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tòng quân hành
從軍行

Tác giả: Vương Thế Trinh - 王世貞

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Minh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/12/2020 16:59

 

Nguyên tác

蹋臂歸來六博塲,
城中白羽募征羌。
相逢試解呉鈎看,
已是金河萬里霜。
馬首垂楊折送行,
酒闌長揖寳刀橫。
軍中最是多兄弟,
不唱陽關第四聲。
朝來分隷李輕車,
揖客轅門意自如。
超距翹關三十萬,
何人領取豹韜書。
夜深鄰帳送胡笳,
三月春寒雪作花。
吹盡關山楊柳曲,
壯心元自不思家。
竒兵十萬擊匈奴,
谷蠡屠耆未擬俘。
對陣奪將金勒馬,
獨身生致北單于。
蹀馬吹塵紫極昏,
洗刀飛血九河渾。
長城直拓三千里,
表取隂山作北門。
胡姬學得漢宮眉,
辛苦風塵損玉肌。
不爲青春容易改,
十年番地失焉支。
鐵騎橫驅瀚海塵,
戈船直擣瘴天春。
不知南北功多少,
羞作麒麟第二人。

Phiên âm

Đạp tí[1] quy lai lục bác[2] trường,
Thành trung bạch vũ mộ chinh Khương.
Tương phùng thí giải Ngô câu[3] khán,
Dĩ thị Kim hà vạn lý sương.
Mã thủ thuỳ dương chiết tống hành,
Tửu lan trường ấp[4] bảo đao hoành.
Quân trung tối thị đa huynh đệ,
Bất xướng Dương Quan[5] đệ tứ thanh.
Triêu lai phân lệ Lý khinh xa[6],
Ấp khách viên môn[7] ý tự như.
Siêu cự kiều quan tam thập vạn,
Hà nhân lĩnh thủ báo thao[8] thư.
Dạ thâm lân trướng tống Hồ già.
Tam nguyệt xuân hàn tuyết tác hoa.
Xuy tận quan san Dương liễu khúc,
Tráng tâm nguyên tự bất tư gia.
Kỳ binh thập vạn kích Hung Nô,
Cốc Lễ[9] Đồ Kỳ[10] vị nghĩ phu.
Đối trận đoạt tương kim lặc mã,
Độc thân sinh trí[11] Bắc Thiền Vu.
Điệp mã xuy trần tử cực hôn,
Tẩy đao phi huyết cửu Hà[12] hồn.
Trường Thành trực thác tam thiên lý,
Biểu thủ Âm Sơn tác bắc môn.
Hồ cơ học đắc Hán cung mi,
Tân khổ phong trần tổn ngọc ky (cơ).
Bất vị thanh xuân dung dịch cải,
Thập niên phiên địa thất Yên Chi[13].
Thiết kỵ hoành khu Hãn Hải trần,
Qua thuyền trực đảo chướng thiên xuân.
Bất tri nam bắc công đa thiểu,
Tu tác kỳ lân đệ nhị nhân.

Bản dịch của phanlang @www.tvvn.org

Thao diễn xong về chơi lục bác,
Sở chỉ huy tuyển lính đánh Khương.
Sông Kim vạn dặm mù sương.
Kiếm Ngô câu cởi bên đường gặp nhau.
Bẻ cành liễu tiễn đưa trên ngựa,
Hết rượu rồi vái lạy hoành đao.
Trong quân nhiều bậc anh hào,
Đừng ca câu bốn bài chào Dương Quan.
Ngày mai đến chia đoàn tướng Lý,
Trong viên môn ý chỉ ra quân.
Ba mươi vạn kẻ siêu quần,
Ai người lãnh nhiệm giữ phần lược thao.
Trướng bên vọng kèn Hồ đêm tối,
Ba tháng xuân tuyết thổi trắng hoa.
Khúc dương liễu khắp quan hà,
Hùng tâm bỏ nỗi nhớ nhà một bên.
Đánh Hung Nô tinh binh mười vạn,
Chưa cầm tù Cốc Lễ, Đồ Kỳ.
Trận tiền ngựa quý bắt ngay,
Một mình lấn đất bắc đày Thiền Vu.
Ngựa dẫm bụi mịt mù trời tối,
Rửa kiếm đao huyết nổi Hoàng Hà.
Trường Thành ngàn dặm đẩy xa,
Bắc môn biểu tấu chính là Âm sơn.
Hồ cơ học vẽ mày cung Hán,
Hao tổn nhiều không đạt được bao.
Thanh xuân biến đổi hôm nào,
Mười năm Di Địch mất vào Yên Chi.
Quân thiết kỵ tung hoành Hãn Hải,
Chướng trời xuân thuyền chiến thẳng xông.
Bắc nam đánh thắng dâng công,
Hổ vì tên đứng đài rồng thứ hai.
[1] Điệu múa xưa, tay cầm nhau, chân đạp xuống đất làm nhịp theo tiếng đờn sáo, thường dùng trong quân đội.
[2] Một lối chơi cờ cổ đại, mỗi bên 6 quân đen trắng, bàn cờ có 12 đường ngang dọc, ở giữa có sông có cá. Khi đến bờ sông ăn cá rồi qua sông ăn quân bên kia, đã thất truyền, chỉ ghi sơ lại trong sách cũ.
[3] Tên loại kiếm hơi cong do người nước Ngô làm ra thời Chiến Quốc, nói chung chỉ đao kiếm sắc.
[4] Lối vái chào ngày xưa của bạn bè cùng trang lứa. Khi gặp nhau, hai tay chắp lại đưa lên cao rồi hạ xuống, người hơi cúi thấp.
[5] Bài Vị Thành khúc của Vương Duy được Đường Huyền Tông cho phổ nhạc, hát lặp đi lặp lại thành Dương Quan tam điệp 陽關三疊, xướng lần hai bắt đầu từ câu thứ tư “Tây xuất Dương Quan vô cố nhân”, rồi tiếp tục lần nữa với câu “Khách xá thanh thanh liễu sắc tân”, riêng câu “Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần”, không được xướng làm câu đầu của đoạn hát mới. Bản thời Đường không còn nhưng theo Tô Thức và các nhà nghiên cứu thì Dương Quan đệ tứ thanh là câu: “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu” vì khi xướng đoạn 2 thì nó là câu thứ tư.
[6] Chỉ Lý Thái 李蔡, em chú bác của Lý Quảng 李廣, hành binh nhanh, thiện chiến, được Hán Vũ Đế phong chức kinh xa tướng quân.
[7] Doanh trại quân đội.
[8] Một trong Lục thao 六韬 của Lã Thượng 呂尚 (Khương Tử Nha) đời nhà Chu, nói về cách hành binh, đánh trận.
[11] Đưa Thiền Vu của Hung Nô đến chỗ ở đã quy định, cho đi an trí.
[10] Tức Thiền Vu Đồ Kỳ 屠耆 (? - 56 tr.CN), tên Bạc Tư Đường 薄胥堂, có tranh đoạt quyền cùng Thiền Vu Hô Hàn Tà 呼韓邪, năm 58 tr.CN tự xưng Thiền Vu Hung Nô, năm 56 tr.CN binh bại tự sát.
[9] Tức Cốc Lễ Vương 谷蠡王, quan danh của Hung Nô do Thiền Vu Mạo Đốn 冒頓 đặt ra, chia làm tả hữu, dưới quyền của Đồ Kỳ Vương, coi về quân sự và hành chánh, do chính con của Thiền Vu đảm nhận.
[12] Chín khúc Hoàng Hà. Thời xưa sông Hoàng Hà từ trung du trở xuống, chia làm 9 nhánh rồi hợp lại tại Thiên Tân đổ ra biển.
[13] Tên núi tại huyện Vĩnh Xương 永昌, tỉnh Cam Túc, một địa điểm chiến lược rất quan trọng. Bài ca cũ của người Hung Nô hát: “Vong ngã Kỳ Liên sơn, sử ngã lục súc bất phiền tức; Thất ngã Yên Chi sơn, sử ngã phụ nữ vô nhan sắc” 亡我祁連山,使我六畜不蕃息;失我 焉支山,使我婦女無顏色 (Ta mất núi Kỳ Liên, khiến lục súc không sinh sôi nẩy nở; Ta mất núi Yên Chi, khiến phụ nữ không nhan sắc). Núi Yên Chi có nhiều rừng lan hồng, thời xưa dùng làm phấn trang điểm cho nữ nhân, nên mất Yên Chi, phụ nữ sẽ hết đẹp.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Vương Thế Trinh » Tòng quân hành