29/03/2024 20:17Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ninh Minh giang ký kiến
寧明江記見

Tác giả: Ngô Thì Nhậm - 吳時任

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/03/2020 06:27

 

Nguyên tác

不待分茅認嶺梅,
朔南界限自安排。
千山丙拱雲黔降,
一水乾流博朗來。
地道隱機非偶爾,
天工深意豈徒哉。
寶書分定閒看熟,
又把圖經一展開。

Phiên âm

Bất đãi phân mao[1] nhận Lĩnh mai[2],
Sóc nam giới hạn tự an bài[3].
Thiên sơn Bính củng Vân Kiềm[4] giáng,
Nhất thuỷ Càn lưu Bác Lãng lai.
Địa đạo ẩn cơ phi ngẫu nhĩ,
Thiên công thâm ý khải đồ tai.
Bảo thư phân định nhàn khan thục,
Hựu bả đồ kinh nhất triển khai.

Dịch nghĩa

Không phải đợi có cỏ rẽ mới nhận ra là mai Dữu Lĩnh,
Ranh giới giữa bắc với nam đã tự sắp đặt rồi.
Nghìn non từ Vân, Kiềm đổ xuống, chầu về phương Bính (phương nam),
Dòng nước từ Bác, Lãng chảy tới, xuôi theo hướng Càn.
Lẽ của phong thuỷ kín đáo, không phải ngẫu nhiên mà có,
Ý của tạo hoá diệu huyền, đâu phải là chuyện vẩn vơ.
Trong sách báu đã ghi, hãy xem cho rõ,
Và lại đem bản đồ trải ra mà coi.

Bản dịch của Đinh Tú Anh

Đợi chi cỏ rẽ biệt giang san,
Địa giới rành rành giữa thế gian.
Núi dại cúi đầu chầu hướng Bính,
Sông khôn quay gót chảy phương Càn.
Diệu huyền phong thuỷ đừng xem nhẹ,
Kín đáo thiên cơ chớ lộ bàn.
Sách báu đã ghi xem thật rõ,
Bản đồ cũng thế, chớ lan man.
Sông Ninh Minh bắt nguồn từ châu Thượng Tư thuộc dãy Thập Vạn Đại Sơn, Quảng Tây, chảy qua châu Ninh Minh rồi đổ vào sông Tả Giang chỗ gần Bằng Tường.

Nguyên chú: Châu Ninh Minh xưa là phủ Tư Minh, nhà Thanh đổi thành tên này. Một dòng sông bắt nguồn từ châu An Bác, tỉnh An Quảng, chảy qua các châu Thoát Lãng, huyện Lộc Bình ở Lạng Sơn rồi cùng đổ vào Trung Quốc. Dòng nước chảy ngược sang nội địa (chỉ Trung Quốc). Duy có thế núi vươn xuống từ Kiềm Châu, Vân Nam, Quý Châu, chạy thẳng đến Lạng Sơn xuống An Quảng như hình cánh cung ôm lấy nước ta. Như vậy là sông hướng vào phía trong (chỉ Trung Quốc) mà núi hướng ra ngoài (chỉ nước ta). Vì thế nước ta luôn phải vào triều kiến, nhưng cũng qua bao triều đại ta lại tự làm chủ nước ta, đều là do cái lẽ phong thuỷ xui khiến nên như vậy.

[1] Núi có cỏ rẽ thành hai bên nam bắc để phân biệt hai vùng. Tục truyền có hai núi, một ở Phòng Thành thuộc Khâm Châu (Quảng Tây), và một ở Hành Dương (Hồ Nam).
[2] Lĩnh tức Dữu Lĩnh, dãy núi chạy từ Quảng Đông sang Giang Tây. Núi trồng nhiều mai nên gọi là Mai Lĩnh. Cổ thư nói: “Nam chi tiền, bắc chi hậu, Dữu Lĩnh chi mai” (Cành mai phía nam nở hoa trước, cành phía bắc nở hoa sau, là mai núi Dữu Lĩnh). Sau thường dùng để chỉ sự phân biệt nam bắc.
[3] Nguyên chú: Sử thi nước ta chép “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rõ ràng đã định tại sách trời).
[4] Vân Nam và Kiềm Châu (hay Quý Châu).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ngô Thì Nhậm » Ninh Minh giang ký kiến