29/03/2024 22:13Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Lư Khê nhàn điếu phú
鱸溪閒釣賦

Tác giả: Mạc Thiên Tích - 鄚天錫

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/08/2014 06:04

 

Phiên âm

Hải khoát, thiên không,
Vân cao, thuỷ dung.
Thời hoa nhược cựu.
Thế sự vô cùng.
Tuần du ư thương ba chi thượng,
Tùng phiếm ư Nam phố chi đông.
Duy độn thương chi đắc lộ.
Cố vật ngã chi hữu cùng,
Nguyên thác tôn ư mang điểu,
Thú vô tình ư cùng thông.
Trữ tri di thứ,
Lão tác ngư ông.

Ư thị:
Kiết điếu cụ,
Phất xoa lạp.
Thiên khinh châu,
Sự cao bồng,
Ngư khinh, trà táo.
Tửu úng, thi đồng
Dụng bị, ứng sự
Ốn trục khinh chình phong,
Sấn trào ba chi thành vụ,
Nhậm thần hôn dĩ cần công.
Đỗ quyên lưu nhi phiếm lạm,
Đích quyên hử chi sung dung.
Nhất can trường dự,
Nhàn điếu thử trung.

Nhĩ nãi:
Niêm hương nhị hề phao khinh kiển,
Trầm tân nguyệt hề hoành đế đổng.
Nhất lũ tài thuỳ,
Vạn ba tuỳ động.
Ngọc thốc vựng viên,
Tiêu trữu phong lộng.
Ỷ tiếp hề trầm ngâm,
Tuỳ cơ hề vãn khống.
Ngô phi thực nhi đa cầu,
Vật nhân tham nhi tự tống.
Tá thứ tiêu bỉ.
Di di không không.
Chí ư: khê khẩu trào bình,
Hải đầu quang lạc,
Yên ba đáo xứ,
Tận kỹ thanh sảng,
Tất đắc giải thưởng.
Thụ thảo ông âm ư khê bạn hề, trừ phố hà lô;
Phong vân liêu điểu ư hài tây hề, thuỷ thiên hạo hoảng
Sa điểu kinh thời nhi cao tường,
Phù diệp tuỳ lưu nhí đãng dạng,
Văn mục địch chi trường suy,
Lai ngự ca nhi đệ hưởng.
Ki trừ can dĩ phóng hoài.
Phục tư nhân hồ tưởng tượng.

Nhiên nhi:
Phiến phàm yên thuỷ
Lưỡng tương thương lang
Bất tri vinh phú.
Nhậm lạc khang trang
Nghi phù du ư thiên ngoại hề, hàng xuất một hồ uông dương:
Kí phiêu linh ư ngư bạc hề, kỳ thê tức hồ Hoài giang[1].
Dĩ đa tình ư Trương Tử[2] hề, tương hữu ỷ ư Nghiêm Quang[3].
Mộ Quý Trát[4] chi thượng thanh vi hề, miến Chi Di[5] chi sự minh mang.
Dẫn Nhậm công[6] chi điếu hề, nghi hồ thư quyển.
Phù Trọng Do[7] chi phu hề, nguyên hĩ tung hoành.
Hệ thử sinh ư Nam hải,
Lạc tạo vật hồ tiền trình,
Hữu thời ngộ ư phong cao, lãng chấn hề, đa sử nhân ư hãi hãi, hồn kinh
Hữu thời hám hồ cốc văn liên y hề, đa sử nhân hồ tâm khoáng thần thanh
Hữu thời đổ ngư được diên phi hề, đa sử nhân ư đạo niệm, hưu minh.
Hữu thời cảm ư bạch vân lưu thuỷ hề, đa sử nhân ư vật ngã vong tình.

Tự thị:
Muội đán vãng lai, thê trì trách hạm,
Hoặc tuỳ tướng nhi bạc lô âm...
Hoặc hoành cà nhi ca dạ tĩnh,
Hoặc bát tương ư khốn ngư,
Hoặc bài luân ư dẫn ngạnh.
Giác thiên địa hề vô di,
Cực phong sương hề tự mãnh.
Bạc phù sinh ư âu vân,
Thị vạn vật như hào dĩnh,
Sưởng hoàng hoa hề dã vong,
Bi phiêu linh hề độc cảnh.

Nhi hựu:
Tư mỹ nhân hề, diểu hà chi,
Hoài cố quốc hề đồ dẫn lĩnh!
Tri cán thực hề canh tường,
Cố tiêu y hề khâm ảnh.
Quý trưởng đại chi vô tài,
Không cảm phẩu ư quang cảnh
Kí can trúc chi sinh nhai
Am thử sinh ư hữu hanh.
Đối văn thuỷ dĩ chung niên,
Lạc yên ba ư vạn khoảnh.
Kì bất phụ hồ ngư lạc bán sinh trung,
Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vịnh.

Bản dịch của Giản Chi

Bể rộng, trời không,
Mây cao nước trong
Ngày tháng như cũ,
Việc đời khôn cùng.
Chơi vơi làn trong, sóng biếc
Mênh mang bến Nam duềnh Đông...
Hành, tàng miễn đúng đường đạo nghĩa
Vật ngã vốn có chỗ chung cùng,
Nguyện gửi dấu chân nơi mang diểu,
Hầu vơi tâm sự, vận cùng thông
Phận làm di thứ,
Vai đóng ngư ông.

Ấy vậy, sửa soạn,
Đồ nghề buông câu:
Lò trà, tơi nón.
Thơ túi, rượu bầu;
Thuyền con một lá.
Thẳng miền lác, lau.
Nương luồng gió thuận
Dong buồm trôi mau...
Lựa con sóng ngọn trào đỡ sức
Sớm rồi chiều chăm sóc như nhau
Ngó duềnh lênh láng
Nhằm vũng trong sâu
Chiếc cần dài sẵn
Buông đó chớ đâu?

Vầng trăng mới chìm chừ, giăng ngang tựa bóng cầu vồng.
Sợi dây một thả
Gợn sóng trùng trùng
Nhỏ to, ngọc tròn từng vốc nổi
Lăn tăn lực mịn bao nếp rung...
Tựa mái chèo chừ, thả, buông, giật, tung
Ta đâu phải vì ăn mà cầu nhiều, ước lắm
Vật chính bởi ham mồi mà mắc lưỡi vô tròng
“Mượn đây, tiêu đó”
Thoải mái, ung dung
Đến như gặp khi
Cửa khe trào lắng
Biển rút quang đãng
Khói sóng đó đây
Rất mực trong sáng
Giai cảnh, lương thì
Tận tình ngoạn thưởng
Cỏ cây xum xuê bên bờ khe chừ lau lác um tùm.
Mây gió phất phơ vùng biển Tây chừ nước trời lấp loáng
Con le kinh ngạc từng lúc tung bay
Chiếc lá bồng bềnh theo làn lên xuống
Nghe hơi sáo mục đồng véo von
Lắng giọng ca ngư ông rổn rảng
Đã hướng cần mong phóng hoài
Lại nhớ ngoài mà tưởng tượng

Thế nhưng:
Buồm một lá bầu trời yên thuỷ
Chèo đôi cay non nước Thương Lang
Chẳng màng phú quý
Miễn thú khang trang
Nên bồng bềnh nơi chân trời chừ mà vào ra giữa khoảng mênh mang
Muôn lênh đênh trên vũng câu chừ mà thê trì trên sóng nước Hoài giang
Đã giàu tính hơn Trương Tử chừ lại có ý với Nghiêm Quang
Mộ Quý Trát chuộng, thanh cao chừ, mến Chi Di tìm cảnh mênh mang
Buông câu Nhậm công chừ hưởng thú thư quyển
Cưỡi bè Trọng Do chừ tin đúng nghĩa hành tàng
Gắn cuộc sống liền vào Nam hải
Nhắm tiền đồ vui đức hoá sinh
Có lúc gặp gió to sóng cả chừ mà vía ác hồn kinh
Có lúc ngó làn sóng lăn tăn chừ mà đạo niệm ngời xanh
Có lúc cảm thông với mây trắng trôi, nước xanh chảy chừ mà bao người quên vật, quên mình.

Từ đó:
Mờ sáng tới lui, nương náu giữa tàu to, thuyền nhỏ
Hoặc theo con nước lên mà, dưới bóng lác lau, đôi chèo yên đỗ,
Hoặc đưa ngang cây kèn mà khúc ca đêm thanh nhịp gõ
Hoặc bẻ lái giúp ông chài gặp bước khó khăn.
Hoặc cuốn dây câu mà lưỡi câu nhẹ gỡ,
Vỡ lẽ trời đất chừ không sót, không quên
Bền gan tiến thủ chừ khinh sương khinh gió.
Coi kiếp sóng bềnh bồng như giọt nước bóng mây kia,
Xem muôn vật nhỏ nhoi như lông thu hạt thóc đó,
Xót trôi giạt chừ cảnh giác phận mình,
Thương thắm tươi chừ điêu linh nội cỏ.

Mà lại:
Tưởng Người Đẹp chừ đang vò võ phương nào,
Nhớ nước cũ chừ chỉ đăm đăm ngoái cổ:
Đoái áo mặc đêm chừ, kìa bóng chăn
Muốn bữa ăn muộn mà cúng giỗ.
Thẹn vì tuổi lớn mà tài năng không
Giận chỉ buồn suông, trước ngày bóng đổ.
Yên phần số cùng cuộc sống ưa may
Qua ngày tháng với cần tre miệng giỏ.
Nước non man mác, thảnh thơi hôm sớm tuổi trời
Khói sóng trùng trùng, vui ngắm bức tranh mây chó
Mong không phụ nửa đời hưởng thú buông câu
Thích có hứng gieo ba chục vần ghi nhớ!
Bài phú này tên đầy đủ là Lư Khê nhàn điếu tam thập nhị phú là bài phú dài hơn trăm câu do Mạc Thiên Tích sáng tác, được xếp chung trong tập thơ Minh Bột di ngư. Bài phú này còn tồn tại là nhờ nó được Phạm Nguyễn Du (1739-1786) chép lại trong Nam hành ký đắc tờ 27a-29a, mang ký hiệu A.2939 hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên (bản in năm 1970), thi sĩ Đông Hồ chỉ giới thiệu được một đoạn của bài phú còn sót trên tường Mạc Công Miếu ở Hà Tiên.

Năm 1980, Cao Tự Thanh thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) nhờ sao lại. Năm 1986, Mộng Tuyết đã trao bản ấy cho học giả Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), do Sở Văn hoá và Thông tin Kiên Giang xuất bản năm 1987, và sau nữa cho in lại trong Văn học Hà Tiên (Đông Hồ biên soạn, bản in lại năm 1999), nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản.

[1] Tức sông Hoài, Trung Quốc.
[3] Tức Nghiêm Tử Lăng. Gặp lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ông đi ẩn cư trên sông Phú Xuân (huyện Đồng Lư, Chiết Giang) lấy câu cá làm vui.
[2] Trương Tử Phòng tức Trương Lương, giúp Lưu Bang dựng thành đế nghiệp, rồi lui về ở ẩn, học đạo với Xích Tùng Tử.
[4] Được vua cha lập làm thái tử, ông không nhận.
[5] tức Phạm Lãi, là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô.
[6] Không rõ, chỉ biết trong sách Trang Tử có câu: “Nhậm công tử kỷ niên bất đắc ngư” (Nhậm công tử buông câu ở bể Đông, cả năm không được cá).
[7] Tức Tử Lộ, một trong những học trò giỏi cua Khổng Tử. Khi còn hàn vi, nhà rất nghèo túng. Tử Lộ quanh năm vất vả, một niềm phụng dưỡng cha mẹ rất chu đáo.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Mạc Thiên Tích » Lư Khê nhàn điếu phú