26/04/2024 14:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thái Bình tự tuyền nhãn
太平寺泉眼

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/02/2015 15:38

 

Nguyên tác

招提憑高岡,
疏散連草莽。
出泉枯柳根,
汲引歲月古。
石間見海眼,
天畔縈水府。
廣深丈尺間,
宴息敢輕侮。
青白二小蛇,
幽姿可時睹。
如絲氣或上,
爛熳為雲雨。
山頭到山下,
鑿井不盡土。
取供十方僧,
香美勝牛乳。
北風起寒文,
弱藻舒翠縷。
明涵客衣淨,
細蕩林影趣。
何當宅下流,
餘潤通藥圃。
三春濕黃精,
一食生毛羽。

Phiên âm

Chiêu đề[1] bằng cao cương,
Sơ tán liên thảo mãng.
Xuất tuyền khô liễu căn,
Cấp dẫn tuế nguyệt cổ.
Thạch gián kiến hải nhãn,
Thiên bạn oanh thuỷ phủ.
Quảng thâm trượng xích gian,
Yến tức cảm khinh vũ.
Thanh bạch nhị tiểu xà.
U tư khả thì đổ.
Như ti khí hoặc thướng,
Lạn mạn vi vân vũ.
Sơn đầu đáo sơn hạ,
Tạc tỉnh bất tận thổ.
Thủ cung thập phương tăng,
Hương mĩ thắng ngưu nhũ.
Bắc phong khởi hàn văn,
Nhược tảo thư thuý lũ.
Minh hàm khách y tịnh,
Tế đãng lâm ảnh thú.
Hà đương trạch hạ lưu,
Dư nhuận thông dược phố.
Tam xuân thấp hoàng tinh[2],
Nhất thực sinh mao vũ[3].

Dịch nghĩa

Ngôi chùa, ở trên cái gò cao,
Trải dài cho tới bãi cỏ.
Rễ cây liễu khô bò ra khỏi suối,
Từ xưa cứ theo năm tháng mà bò xa.
Trong vùng đá thấy hốc rộng như bể,
Tận chân trời thấy nước cuốn dồn một chỗ.
Chỗ sâu chỗ nông có đến cả thước với trượng,
Khí chảy khi ngưng ai mà dám nói bừa được.
Hai con rắn nhỏ màu trắng với xanh,
Khi ẩn lúc hiện rõ.
Hơi bốc lên mảnh như sợi tơ,
Kết tụ lại thành mây mưa.
Từ đỉnh núi cho tới chân,
Đào giếng mà không tới đất.
Nước đủ dùng cho các sư từ khắp nơi về,
Mùi nó thơm hơn cả sữa bò.
Gió bấc thổi khiến mặt nước có vằn lạnh,
Đám rong yếu bị thồi rời khỏi bè xanh.
Áo khách sạch nhờ công hàm dưỡng,
Bóng rừng chập chờn thật là đẹp.
Chừng nào làm nhà ở phía xuôi của dòng nước,
Có thừa nước để tưới vườn trồng cây thuốc.
Ba tháng xuân làm cây hoàng tinh ẩm ướt,
Ăn vào con người sẽ mọc lông lá.

Bản dịch của Phạm Doanh

Chùa trên gò cao,
Tản mát gần bãi cỏ.
Khỏi suối, rễ liễu khô,
Mọc theo năm tháng cũ.
Bãi đá thấy vũng to,
Chân trời nước dồn đổ.
Thước, trượng kể nông sâu,
Chảy, ngừng dám cợt nhả.
Hai rắn nhỏ trắng, xanh,
Dáng mờ đôi lúc rõ.
Hơi bay lên như tơ,
Mây mưa nhờ kết tụ.
Đầu núi xuống tới chân,
Đào giếng không tới lỗ.
Sư các nơi đủ dùng,
Hương thơm hơn sữa nghé.
Gió bắc tạo sóng vằn,
Bè rong tan tác vỡ.
Khéo tu áo khách khô,
Bóng rừng thấy nhấp nhố.
Chừng nào ở cuối dòng,
Vườn thuốc được tưới đủ.
Cuối xuân tốt khoai từ,
Ăn vào mọc lông vũ.
(Năm 759)

[1] Chùa Phật, gốc phát âm từ chữ Phạn "thác đẩu đề xa" 拓斗提奢 (catur desa), nói gọn là "thác đề", nhưng lại bị viết sai là "chiêu đề" 招提, có nghĩa là tứ phương. Tăng chúng bốn phương mệnh danh là "chiêu đề tăng" 招提僧. Nơi trụ trì của sư tăng bốn phương gọi là "chiêu đề tăng phường" 招提僧坊. Thời Bắc Nguỵ, Thái Vũ Đế 太武帝 cho xây già lam (chùa, tu viện, do phát âm từ chữ Phạn sangharama), nhân đó tạo ra cụm "chiêu đề" và dùng để chỉ tự viện.
[2] Cây dong thuộc họ marantaceae, có thể dùng làm vị thuốc chữa bệnh về gan, phổi.
[3] Như vị tiên Ốc Thuyên.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Thái Bình tự tuyền nhãn