Rút từ
Quế Sơn thi tập tục biên.
Bản dịch của chính tác giả, theo các bản
Quốc văn tùng ký (AB.383),
Nam âm thảo (VHv.2381).
Khảo dị:
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy,
Nửa chen mặt nước nửa tầng mây.
Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước,
Ngán kẻ phương trời chẳng dứt dây.
Bẻ liễu Thành Đài thôi cũng xếp,
Trồng lan ngõ tối ngát nào hay.
Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng,
Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.
[1] Tên thuỵ của Đào Tiềm đời Tấn.
[2] Tên thực của Vương Tường, một cung nữ rất đẹp đời Hán. Vì không có tiền đút lót cho Mao Diên Thọ nên không được vua biết đến. Khi quân Hung Nô xâm lăng, nhà Hán yếu thế phải dâng Chiêu Quân cho chúa Hung Nô.
[3] Khúc hát biệt ly. Ngày xưa, khi tiễn biệt nhau, người Trung Quốc thường bẻ liễu tặng nhau. Ngọc Quan là cửa ải từ nhà Hán sang Tây Vực.
[4] Do thành ngữ “Lan sinh u cốc” (hoa lan sinh trong hang tối) để nói việc ở ẩn của tác giả (cũng như Đào Tiềm) để giữ phẩm hạnh.
[5] Tác giả dẫn điển Hàn Hoành đời Đường lấy một danh kỹ là Liễu thị ở phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để Liễu thị ở lại đó ba năm, không đón đi được, nên làm bài
Chương Đài liễu để thăm. Ý muốn nói trong lúc thời cuộc đổi thay, những cảnh bất trắc cũng chẳng lạ lùng gì. Hai bản chữ Nôm viết là “Chương dài”, có lẽ nhầm.
[6] Câu này viết thoát ý thành ngữ “Lan sinh u cốc”: hoa lan mà sinh trong hang tối thì dẫu có thơm tho cũng chẳng ai biết.
[7] Chỉ người đàn bà đẹp. Câu này theo quan niệm xưa ý nói “hồng nhan bạc mệnh”.