28/03/2024 15:22Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hỉ tình
喜晴

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/01/2015 17:57

 

Nguyên tác

皇天久不雨,
既雨晴亦佳。
出郭眺西郊,
肅肅春增華。
青熒陵陂麥,
窈窕桃李花。
春夏各有實,
我饑豈無涯。
干戈雖橫放,
慘澹鬥龍蛇。
甘澤不猶愈,
且耕今未賒。
丈夫則帶甲,
婦女終在家。
力難及黍稷,
得種菜與麻。
千載商山芝,
往者東門瓜。
其人骨已朽,
此道誰疵瑕。
英賢遇轗軻,
遠引蟠泥沙。
顧慚昧所適,
回首白日斜。
漢陰有鹿門,
滄海有靈查。
焉能學眾口,
咄咄空咨嗟。

Phiên âm

Hoàng thiên cửu bất vũ,
Ký vũ tinh diệc giai.
Xuất quách diểu tây giao,
Túc túc xuân tăng hoa.
Thanh huỳnh lăng pha mạch,
Yểu điệu đào lý hoa.
Xuân hạ các hữu thực,
Ngã cơ khởi vô nha.
Can qua tuy hoành phóng,
Thảm đạm đấu long xà.
Cam trạch bất do dũ,
Thả canh kim vị xa.
Trượng phu tắc đới giáp,
Phụ nữ chung tại gia.
Lực nan cập thử tắc,
Đắc chủng thái dữ ma.
Thiên tải Thương Sơn chi,
Vãng giả Đông Môn qua.
Kì nhân cốt dĩ hủ,
Thử đạo thuỳ tì hà?
Anh hiền ngộ khảm kha,
Viễn dẫn bàn nê sa.
Cố tàm muội sở thích,
Hồi thủ bạch nhật tà.
Hán âm hữu Lộc Môn[1],
Thương hải hữu linh tra.
Yên năng học chúng khẩu,
Đốt đốt không tư ta[2].

Dịch nghĩa

Ông trời lâu không mưa,
Mưa xong tạnh trời đẹp.
Ra khỏi thành coi ngoại ô phía tây,
Gấp gáp xuân tăng vẻ đẹp.
Đom đóm xanh bay trên ruộng lúa,
Hoa đào hoa mận nhởn nhơ.
Mùa xuân, mùa hè mọi cái đều kết trái,
Ta đói há không chỗ nương sao.
Gươm dáo tuy vung vít,
Rồng rắn chọi nhau thật ác liệt.
Ân huệ vốn chẳng được nhiều,
Vả cho tới nay cày chưa rồi,
Thân trai phải mặc áo lính,
Đàn bà suốt đời trong nhà.
Sức nhọc vì lúa gạo,
Trồng được rau cùng gai.
Ngàn đời cỏ chi nơi Thương Sơn,
Cái đã qua là dưa Đông Môn.
Người này xương đã nát,
Lối này ai phạm lỗi.
Kẻ hiền tài gặp cảnh uất ức,
Đưa tới rơi vào nơi bùn cát xa.
Cho nên thẹn về cái ý muốn của mình,
Khi quay đầu lại suy nghĩ thì ngày trắng đã xế.
Miền nam sông Hán có núi Lộc Môn,
Nơi biển xanh kia có cái bè thần.
Làm sao mà học được miệng lưỡi của người đời,
Cứ than "chà chà" hoài.

Bản dịch của Phạm Doanh

Ông trời lâu không mưa,
Sau mưa đẹp hết nực.
Rời thành coi phía tây,
Xuân càng đẹp rạo rực.
Ruộng lúa đóm xanh bay,
Hoa đào, mận náo nức.
Xuân, hè quả đều ra,
Ta đói, há không mức.
Dáo gươm tuy múa quàng,
Rồng, rắn cùng đấu lực.
Móc ngọt không có dư,
Tới nay cày chưa được.
Áo giáp đàn ông mang,
Đàn bà lo canh tác.
Trồng được chút rau dưa,
Thóc gạo không đủ sức.
Cỏ Thương Sơn, ngàn đời,
Dưa Đông Môn hết chước.
Người này xương đã khô,
Lối đó ai vướng mắc.
Tài giỏi gặp cảnh eo,
Xa rơi chốn bùn rác.
Nghĩ ngượng điều mình ưa,
Quay đầu ngày xanh tắt.
Nam Hán có Lộc Môn,
Thương hải có bè chắc.
Cố học miệng người đời,
Để khỏi phải "chặc chặc".
(Năm 757)

[1] Nơi Bàng công, người ở ẩn, không ham quan chức, dẫn vợ con vào núi hái thuốc làm kế sinh nhai.
[2] Ân Hạo 殷浩 đời Tấn chán nản việc đời, cứ lấy tay viết bốn chữ "đốt đốt quái sự" 咄咄怪事 (chà chà chuyện lạ) trong không trung, tỏ ý bất mãn một cách tiêu cực.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Hỉ tình