09/10/2024 08:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 14/02/2012 08:31
Nguyên tác
黃草峽西船不歸,
赤甲山下行人稀。
秦中驛使無消息,
蜀道兵戈有是非。
萬里秋風吹錦水,
誰家別淚濕羅衣。
莫愁劍閣終堪據,
聞道松州已被圍。
Phiên âm
Hoàng Thảo[1] hạp tây thuyền bất quy,
Xích Giáp[2] sơn hạ hành nhân hy.
Tần[3] trung dịch sử vô tiêu tức,
Thục[4] đạo binh qua hữu thị phi.
Vạn lý thu phong xuy Cẩm thuỷ[5],
Thuỳ gia biệt lệ thấp la y.
Mạc sầu Kiếm Các[6] chung kham cứ,
Văn đạo Tùng Châu[7] dĩ bị vi.Dịch nghĩa
Thuyền đi về phía tây kẽm Hoàng Thảo không trở lại,
Người đi lại dưới chân núi Xích Giáp ít ỏi.
Thư từ với đất Tần không tin tức,
Việc điều binh ờ đất Thục có tai tiếng.
Gíó thu đang thổi trên sông Cẩm cách xa vạn dặm,
Nhà ai khóc sầu xa quê lệ rơi ướt áo lụa.
Đừng buồn ải Kiếm Các không ngăn nổi giặc,
Nghe nói Tùng Châu đã bị bao vây.Bản dịch của Nhượng Tống
Thác Vàng nẻo cách, vắng thuyền về,
Núi Đỏ đường qua ít khách đi.
Tin tức sứ Tần không thấy lại,
Được thua quân Thục có từng khi.
Thổi sông Gấm, gió thu man mác,
Đẫm áo là ai, lệ biệt ly.
Nghe nói châu Tùng vây đã kín,
Giữ suông Kiếm Các có ra gì.
Bài này làm năm 766, khi Thành Đô có loạn giặc Thổ Phồn, Đỗ Phủ đưa gia quyến xuống thuyền bỏ thào đường, đi lánh nạn tại Quỳ châu.
[1] Tên kẽm trong địa phận Quỳ châu.
[2] Tên núi trong địa phận Quỳ châu.
[3] Nay là tỉnh Thiểm Tây. Kinh đô Trường An nằm ở đây.
[4] Nay là tỉnh Tứ Xuyên.
[5] Sông chảy qua thảo đường của tác giả.
[6] Cửa ải trọng yếu trên đường từ Tần vào Thục.
[7] Nay là huyện Tùng Phan, ở phía tây bắc tỉnh Tứ Xuyên.