30/03/2024 02:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Điếu Trần Bích San
弔陳碧珊

Tác giả: Tự Đức hoàng đế - 嗣德皇帝

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Phụng Hà vào 06/07/2010 21:57

 

Nguyên tác

龍編纔向鳳城回,
朝對猶希永彆催。
賈誼少年難久用,
漢文前席正弘開。
三元聲價留殘竹,
半夜風霜落早梅。
空億丞槎隨博望,
幾回天馬自西來。

Phiên âm

Long Biên[1] tài hướng phượng thành hồi,
Triều đối do hy vĩnh biệt thôi.
Giả Nghị[2] thiếu niên nan cửu dụng,
Hán Văn[3] tiền tịch chính hoằng khai.
Tam nguyên[4] thanh giá lưu tàn trúc,
Bán dạ phong sương lạc tảo mai.
Không ức thừa tra tuỳ Bác Vọng[5],
Kỷ hồi thiên mã tự tây lai.

Bản dịch của (Không rõ)

Vừa ở Thăng Long đến đế kinh,
Ngờ đâu vĩnh biệt phút thình lình.
Gác cao chờ đón, buồn Văn đế,
Tuổi trẻ tài danh, khóc Giả Sinh.
Bảng quán ba trường văn chói lọi,
Mai vừa nửa giấc gió tan tành.
Một đi Bát Vọng khôn tìm dấu,
Thiên mã tây sang lại giật mình!
Trần Bích San hiệu Mai Nham sinh năm 1840, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, là một người tài giỏi, được người đời sánh ngang hàng với Vương Tăng, một danh sĩ đời Tống ở Trung Hoa. Ông được vua Tự Đức trọng dụng, đổi tên là Trần Hy Tăng. Trần Bích San từng được bổ nhiệm làm tuần phủ Hà Nội. Năm 1870, giữ chức lễ bộ sự vụ, được cử đi sứ sang Trung Quốc lo việc mở thương cục. Là một sĩ phu yêu nước, ông ủng hộ những người chống Pháp, kịch liệt phê phán những người nghị hoà, đầu hàng giặc để một phần đất nước rơi vào tay giặc Pháp xâm lược. Trần Bích San là người có tư tưởng tiến bộ, muốn tiến hành cải cách nước ta về mọi mặt. Tiếc rằng, vua Tự Đức và một số quan lại bảo thủ đã bỏ ngoài tai những ý kiến quý báu, cực kỳ quan trọng của ông cũng như của những sĩ phu tiến bộ thời bấy giờ.

Năm 1877, vua Tự Đức cử Trần Bích San dẫn đầu phái đoàn sang Pháp để tiếp tục nghị hoà và thương lượng về vấn đề Nam Kỳ. Đến thời điểm này, Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm được 10 năm. Một số nơi ở miền Trung và miền Bắc, quân Pháp tiếp tục gây hấn và chiếm đóng. Thật là trớ trêu! Từ năm 1862, rồi đến năm 1867, Phan Thanh Giản đã dẫn đầu phái đoàn nghị hoà với Pháp. Kết cuộc Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Đại học sĩ Phan Thanh Giản phải uống thuốc độc tự tử. Phan Thanh Giản còn bị triều đình cách bỏ chức tước, đục xoá tên ở bia tiến sĩ. Ngay sau khi được triều đình cử dẫn đầu phái đoàn đi Pháp để đàm phán, Trần Bích San đã có ngay một sự lựa chọn. Với kẻ sĩ, không nhận nhiệm vụ là chống lại mệnh vua, là bất trung, vâng mệnh vua, đi nghị hoà với giặc, chưa chắc đã thành công. Với một người có tư tưởng chống Pháp, đứng trước bối cảnh lịch sử, trước cán cân lực lượng của ta và địch, trước sự nhu nhược bảo thủ của triều đình, theo Trần Bích San, nghị hoà là bán nước, đầu hàng giặc Pháp, sẽ trở thành tội nhân của dân tộc, đất nước và lịch sử đến muôn đời sau. Thế là sau khi vào triều trở về nhà được 1 ngày, Trần Bích San uống thuốc độc tự tử để phản đối chủ trương nghị hoà của triều đình, thể hiện chí hướng của mình. Ông đã lấy cái chết để thức tỉnh người đang sống.

Có thuyết nói trước khi sang Pháp, phải vào Sài Gòn gặp phó thuỷ sư đô đốc Pháp là Dupré. Ông này và Trần Bích San từng có va chạm ở Hà Nội. Vì ngại Dupré sẽ làm nhục mình và nhục lây đến quốc thể nên Trần Bích San tự tử. Vua Tự Đức thương tình, đi điếu bài thơ này.

[1] Chỉ Hà Nội.
[2] Giả Nghị (201 TrCN - 169 TrCN), giỏi từ phú nghị luận, làm tới Thái trung đại phu đời Tây Hán, chủ trương cải cách nhưng bọn gian thần bài xích nên bị biếm làm Thái phó Trường Sa Vương ở Trường Sa xa xôi (nay là tỉnh Hồ Nam).
[3] Chỉ Hán Văn Đế (Lưu Hằng). Sau khi được đưa lên làm vua, Văn Đế hạ lệnh cho các quận tiến cử người tài, nhờ vậy thu nạp được các nhân tài như Giả Nghị, Tiều Thác. Hán Văn Đế chú trọng xây dựng cơ nghiệp của cha để lại. Năm 178 TrCN, theo lời kiến nghị của Giả Nghị bàn nên khuyến khích phát triển nông nghiệp, ông hạ chiếu khuyến thiên hạ cày cấy. Về vấn đề chư hầu, Văn Đế theo đề nghị của Giả Nghị trong bản Sách lược trị an. Dù lúc Giả Nghị còn sống, kiến nghị không được thực thi nhưng sau khi Giả Nghị mất, Văn Đế đã áp dụng.
[4] Trần Bích San đậu thủ khoa ba kỳ: Hương thí, Hội nguyên, Đình nguyên. Người thời bấy giờ gọi ông là Tam nguyên Vị Xuyên.
[5] Chưa rõ Bác Vọng của Trung Quốc, hay Bác Vọng là một làng cổ, xưa thuộc tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên nay thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, nơi năm 1712 chúa Nguyễn Phúc Chu chuyển thủ phủ về đây. Có lẽ chỉ việc đi sứ Trung Quốc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Tự Đức hoàng đế » Điếu Trần Bích San