27/04/2024 10:46Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hậu xuất tái kỳ 2
後出塞其二

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 25/01/2009 23:19

 

Nguyên tác

朝進東門營,
暮上河陽橋。
落日照大旗,
馬鳴風蕭蕭。
平沙列萬幕,
部伍各見招。
中天懸明月,
令嚴夜寂寥。
悲笳數聲動,
壯士慘不驕。
借問大將誰,
恐是霍嫖姚。

Phiên âm

Triêu tiến Đông Môn doanh,
Mộ thượng Hà Dương kiều.
Lạc nhật chiếu đại kỳ,
Mã minh phong tiêu tiêu.
Bình sa liệt vạn mạc,
Bộ ngũ các kiến chiêu.
Trung thiên huyền minh nguyệt,
Lệnh nghiêm dạ tịch liêu.
Bi già sổ thanh động,
Tráng sĩ thảm bất kiêu.
Tá vấn đại tướng thuỳ,
Khủng thị Hoắc phiêu diêu[1].

Dịch nghĩa

Sớm tới cửa trại phía đông,
Chiều tới cầu Hà Dương.
Bóng chiều tà chiếu lên lá cờ lớn,
Ngựa hí, gió lồng lộng.
Nơi bãi cát bằng phẳng có hàng vạn bộ chỉ huy,
Các đội ngũ đều tề chỉnh.
Trăng sáng treo giữa trời,
Quân lệnh uy nghiêm nên ban đêm rất yên tĩnh.
Vài tiếng tù và kêu ảm đạm,
Người lính chiến buồn nhưng không kiêu ngạo.
Thử hỏi viên đại tướng là ai vậy,
Sợ chính là tướng phiêu diêu họ Hoắc.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Doanh Đông Môn buổi sáng,
Cầu Hà Dương buổi chiều.
Bóng xế soi cờ đỏ,
Ngựa hí gió hiu hiu.
Cát bằng đóng muôn trại,
Quân nào trại ấy theo.
Lệnh nghiêm đêm lặng lẽ,
Trăng sáng giữa trời treo.
Đôi tiếng kèn bi trỗi,
Tráng sĩ cùng buồn theo.
Đại tướng là ai đó,
E là Hoắc phiêu diêu.
(Năm 755)

[1] Hoắc Khứ Bệnh 霍去病 (145 tr.CN - 117 tr.CN) người đời Tây Hán, vùng Bình Dương (nay là Lâm Phần, Sơn Tây), giỏi bắn cung, nhiều lần xâm lấn Hung Nô thành công, được phong là Phiêu kỵ tướng quân. Ông từng giữ chức Phiêu diêu hiệu uý. Phiêu diêu còn được viết là 票姚, 票鷂, 剽姚 hoặc 驃姚. Tên thuỵ của ông là là Cảnh Hoàn Hầu 景桓侯.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Hậu xuất tái kỳ 2