03/10/2024 20:18Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vodanhthi vào 14/08/2009 18:33
Nguyên tác
半旬病起甕初開,
甚處嘉餚送到來。
欲釋離愁千萬縷,
何妨軟飽兩三杯。
妻兒久已寒喧隔,
叔季偏能日夜陪。
醉臥前楹驚乍覺,
一輪明月上層臺。
Phiên âm
Bán tuần bệnh khởi úng[1] sơ khai,
Thậm xứ gia hào[2] tống đáo lai.
Dục thích ly sầu thiên vạn lũ,
Hà phương nhuyễn bão[3] lưỡng tam bôi.
Thê nhi cửu dĩ hàn huyên[4] cách,
Thúc quý thiên năng nhật dạ bồi.
Tuý ngoạ tiền doanh kinh sạ giác,
Nhất luân minh nguyệt thướng tằng đài.Dịch nghĩa
Suốt nửa tuần nằm bệnh, ngẫu cảm ngồi dậy bắt đầu mở nậm rượu
Rất ngon vì lấy thêm món nhắm (gia hào) của ông đã đem cho
Uống để vứt bỏ ngàn vạn mối sầu bởi cảnh ly biệt
Sợ gì chỉ uống vài ba chén?
Vợ con đã cách xa, lâu ngày không chuyện trò
May ở đây có hai chú em thường ngày đêm gần gũi giúp nhau
Nằm trước hàng cột tự nhiên giật mình tỉnh dậy
Một vừng trăng sáng toả khắp tầng lầu.Bản dịch của Trần Bá Chí
Nửa tuần bệnh đỡ mở be bầu,
Thêm món nem ngon chén một chầu.
Ngàn vạn mối sầu mau tẩu tán,
Vài ba chén rượu thấm gì đâu.
Vợ con cách biệt hàn huyên thiếu,
Có chú sớm hôm gần gũi nhau.
Tựa cột say mèm đêm chợt tỉnh,
Một vừng trăng bạc tỏa quanh lầu.
Ất dạ: đồng hồ cổ chia đêm làm năm dạ gọi là dạ lậu. Giáp dạ là canh một, Ất dạ là canh hai, Bính dạ là canh ba, Đinh dạ là canh tư, Mậu dạ là canh năm. Mỗi đêm có năm canh.
Bản phiên âm và chú thích của PGS.TS sử học Trần Bá Chí, bản dịch nghĩa của NXB Hải Phòng.
[1] Dụng cụ đựng rượu làm bằng sành, sau làm bằng sứ, thuộc loại be, nậm, v.v...
[2] Nem làm bằng nạc lẫn bì lẫn mỡ. Nguyên chú: Món này do ông Phương đã biếu một mâm.
[3] Nguyên chú: Người Trung Quốc gọi là uống rượu.
[4] Chuyện trò, kể lể, tâm sự. Thơ Lý Thương Ẩn có câu “Đại đắc long lai nguyệt dĩ đê, Hàn huyên bất đạo tuý như nê” (Chờ anh đến thì trăng sắp lặn, không ngờ trò chuyện đến say mềm như bún).