27/04/2024 10:02Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/03/2015 14:05
Nguyên tác
孤嶼亭何處,
天涯水氣中。
故人官就此,
絕境興誰同。
隱吏逢梅福,
游山憶謝公。
扁舟吾已就,
把釣待秋風。
Phiên âm
Cô dữ đình hà xứ,
Thiên nhai thuỷ khí trung.
Cố nhân quan tựu thử,
Tuyệt cảnh hứng thuỳ đồng.
Ẩn lại phùng mai phúc,
Du sơn ức Tạ công[1].
Thiên chu ngô dĩ tựu,
Bả điếu đãi thu phong.Dịch nghĩa
Cái hòn đảo lẻ dừng nơi đâu,
Nơi chân trời giữa vùng nước với trời.
Người cũ đạt đến chức quan đến nơi đấy,
Cảnh tuyệt đẹp này khiến hứng dâng cao mà không ai ngắm cùng.
Viên quan ở ẩn nếu gặp hoa mai là may,
Đi chơi núi nhớ đến ông Tạ Linh Vận.
Cái thuyền nhỏ tôi đã bước lên,
Thả câu đợi gió thu về.Bản dịch của Phạm Doanh
Đảo vắng biết ở nơi nào.
Chân trời chính giữa một bầu nước mây.
Bạn cũ, quan bổ tới đây,
Nơi xa hẻo lánh bạn bày cùng ai.
Quan ẩn, may nếu gặp mai,
Leo núi hãy nhớ tới lời Tạ công.
Thuyền con tôi đã theo dòng,
Buông câu những đợi thu phong thổi về.
Bài thơ này được làm năm Thiên Bảo thứ 11 (752), tại Trường An.
[1] Tạ Linh Vận (385-433), văn học gia nước Tống thời Nam triều, cháu của Tạ Huyền 謝玄. Khi bé có tên là Khách nên ông cũng được gọi là Tạ Khách 謝客. Được phong là Khang Lạc Công 康樂公. Thời nhỏ ham học có tài viết, vẽ. Thích du lịch leo núi, nên đã sáng chế ra guốc gỗ dùng đi núi.