29/03/2024 08:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Vãng tại
往在

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/02/2015 21:59

 

Nguyên tác

往在西京日,
胡來滿彤宮。
中宵焚九廟,
雲漢為之紅。
解瓦飛十里,
繐帷紛曾空。
疚心惜木主,
一一灰悲風。
合昏排鐵騎,
清旭散錦幪。
賊臣表逆節,
相賀以成功。
是時妃嬪戮,
連為糞土叢。
當甯陷玉座,
白間剝畫蟲。
不知二聖處,
私泣百歲翁。
車駕既雲還,
楹桷欻穹崇。
故老復涕泗,
祠官樹椅桐。
宏壯不如初,
已見帝力雄。
前春禮郊廟,
祀事親聖躬。
微軀忝近臣,
景從陪群公。
登階捧玉冊,
峨冕耿金鐘。
侍祠恧先露,
掖垣邇濯龍。
天子惟孝孫,
五雲起九重。
鏡奩換粉黛,
翠羽猶蔥朧。
前者厭羯胡,
後來遭犬戎。
俎豆腐膻肉,
罘罳行角弓。
安得自西極,
申命空山東。
盡驅詣闕下,
士庶塞關中。
主將曉逆順,
元元歸始終。
一朝自罪己,
萬里車書通。
鋒鏑供鋤犁,
征戍聽所從。
冗官各複業,
土著還力農。
君臣節儉足,
朝野歡呼同。
中興似國初,
繼體如太宗。
端拱納諫諍,
和風日沖融。
赤墀櫻桃枝,
隱映銀絲籠。
千春薦陵寢,
永永垂無窮。
京都不再火,
涇渭開愁容。
歸號故松柏,
老去苦飄蓬。

Phiên âm

Vãng tại Tây kinh[1] nhật,
Hồ[2] lai mãn đồng cung.
Trung tiêu phàn cửu miếu[3],
Vân hán vị chi hồng.
Giải ngoã phi thập lý,
Huệ duy phân tằng không.
Cứu tâm tích mộc chủ,
Nhất nhất hôi bi phong.
Hợp hôn bài thiết kỵ,
Thanh húc tán cẩm mông.
Tặc thần biểu nghịch tiết,
Tương hạ dĩ thành công.
Thị thì phi tần lục,
Liên vi phẩn thổ tùng.
Đương ninh[4] hãm ngọc toạ,
Bạch gian bác đồ trùng.
Bất tri nhị thánh[5] xứ,
Tư khấp bách tuế ông.
Xa giá ký vân hoàn,
Doanh giác thúc khung sùng.
Cố lão phục thế tứ,
Từ quan thụ kỳ đồng.
Hoành tráng bất như sơ,
Dĩ kiến đế lực hùng.
Tiền xuân lễ giao miếu,
Tự sự thân thánh cung.
Vi khu thiêm cận thần,
Cảnh tòng bồi quần công.
Đăng giai phủng ngọc sách,
Nga miện cảnh kim chung.
Thị từ nục tiên lộ,
Dịch viên nhĩ trạc long.
Thiên tử duy hiếu tôn,
Ngũ vân khởi cửu trùng.
Kính liêm hoán phấn đại,
Thuý vũ độc thông lung.
Tiền giả áp Yết Hồ,
Hậu lai tào Khuyển Nhung.
Trở đậu hủ chiên nhục,
Phù ti hành giác cung.
An đắc tự tây cực,
Thân mệnh không Sơn Đông.
Tận khu nghệ khuyết hạ,
Sĩ thứ tắc Quan Trung.
Chủ tướng hiểu nghịch thuận,
Nguyên nguyên quy thuỷ chung.
Nhất triêu tự tội kỷ,
Vạn lý xa thư thông.
Phong đích cung sừ lê,
Chinh thú thính sở tòng.
Nhũng quan các phục nghiệp,
Thổ trước hoàn lực nông.
Quân thần tiết kiệm túc,
Triều dã hoan hô đồng.
Trung hưng tự quốc sơ,
Kế thể như Thái Tông.
Đoan củng nạp luyện tránh,
Hoà phong nhật xung dung.
Xích trì anh đào chi,
Ẩn ánh ngân tư lung.
Thiên xuân tồn lăng tẩm,
Vĩnh vĩnh thuỳ vô cùng.
Kinh đô bất tái hoả,
Kinh, Vị khai sầu dung.
Qui hào cố tùng bách,
Lão khứ khổ phiêu bồng.

Dịch nghĩa

Ngày trước ở Tây kinh,
Giặc Hồ tới chiếm đầy cung đỏ.
Giữa đêm, đốt chín miếu thờ,
Đỏ rực cả sông Ngân.
Mảnh ngói vỡ bay xa đến mười dặm,
Màn cửa mỏng tung bay đầy trên không.
Lòng chán ngán tiếc thương cho các bài vị thờ,
Tất cả đều thành than bay trong gió buồn.
Đội thiết kị dàn hàng trong chiều tà,
Nắng trời trải trên tấm màn gấm.
Bọn quan làm phản dùng bừa những nghi thức vua,
Để mừng vì được thành công.
Lúc đó các phi tần bị giết hại,
Đều bị coi như đồ rác rưởi vậy.
Vua bị cô lập trong nhà ngọc,
Giữa ngày mối đục vẽ.
Không biết chỗ hai thánh,
Có ông khóc thầm suốt đời.
Xe vua đã theo mây trở lại,
Cột kèo bỗng cao vòi vọi.
Các ông già lại sụt sùi khóc,
Các quan coi việc cúng tế lo trồng loại cây ỷ đồng.
Không được hoành tráng như hồi mới đầu,
Nhưng cũng đủ thấy uy quyền vua mạnh lên.
Tới xuân làm lễ tế trời và tiên tổ,
Việc cúng này do đích thân vua làm.
Thân hèn có thêm đám quan lại gần vua,
Tiếp theo đó là lũ các ông.
Bước lên thềm bưng sách ngọc,
Mũ cao sáng rực chuông vàng.
Các quan phụ tế bẽn lẽn hiện ra trước,
Đầy cung đã thấm ướt rồng.
Vua là một con cháu có hiếu,
Năm sắc mây nổi lên trên chín bệ.
Gương soi thay đổi phấn sáp,
Mày ngài vẫn đậm tươi.
Rợ Yết Hồ trước kia chán ghét,
Sau này lại gặp Khuyển Nhung.
Thịt tanh hôi trên đĩa cúng tế,
Cung hình sừng hiện ra cả chốn phòng ngoài.
Mong sao từ tít vùng tây,
Lệnh vua được thi hành tới phía đông núi.
Rầm rập tới viếng cửa vua,
Các quan lại tụ cả về phía trong cửa ải.
Chủ tướng hiểu được cái đúng, sai,
Nhân dân biết lẽ sau, trước.
Một sớm biết tự nhận lỗi mình,
Mà nơi xa vạn dặm xe, sách cùng chung.
Gươm dáo cày bừa,
Kẻ nơi tiền tuyến được trở về như ý muốn.
Các quan lại được thanh thả mà làm việc,
Sức làm ruộng được trở về với đất đai.
Vua tôi cùng tiết kiệm,
Trong triều ngoài nội cùng phấn khởi.
Giai đoạn phục hồi này y hệt lúc mới lập nghiệp,
Kế thừa được như vua Thái Tông.
Mạnh dạn dâng lời can ngăn,
Cơn gió điều hoà ngày càng êm ả.
Cành anh đào nơi thềm đỏ,
Lấp lánh giò đan sợi tơ vàng.
Ngàn năm gìn giữ lăng tẩm,
Mãi mãi truyền tới vô cùng.
Kinh đô sẽ không bị lại cảnh lửa cháy,
Sông Kinh, sông Vị trút bỏ được nét buồn.
Quay về lại nói cùng cây tùng bách cũ,
Lão già này dứt được nỗi khổ vì lênh đênh.

Bản dịch của Phạm Doanh

Thời trước ở Tây kinh,
Hồ tới đầy cung đỏ.
Nửa đêm đốt miếu thờ,
Sông Vân hán rực tỏ.
Ngàn dặm ngói vỡ bay,
Lưng trời tung màn cửa.
Đau lòng thấy bàn thờ,
Đều thành tro theo gió.
Chiều hôm thiết kỵ dàn,
Nắng mai, màn gấm mở.
Để mừng đã thành công,
Bọn phản trổ tài phá.
Giết đến cả phi tần,
Mọi thứ là đồ bỏ.
Vua nép nơi nhà vàng,
Nhà trống sâu khoét lỗ.
Chẳng biết hai chỗ vua,
Trăm năm già nức nở.
Xe vua đã trở về,
Cột kèo lại lồ lộ
Già cả lệ đầm đìa,
Ông từ trồng cây cọ.
Huy hoàng có kém xưa,
Uy vua được củng cố.
Xuân trước tế đàn giao,
Đích thân vua đứng chủ.
Gần cạnh là quan to,
Các ông kèm theo họ.
Lên thềm dâng tờ văn,
Mũ cao, chuông vàng đổ.
Phụ tế dụt dè lên,
Rồng ướt đầy công sở.
Chín bệ, năm sắc mây,
Con hiếu duy thiên tử.
Gương soi đổi phấn son,
Chỉ mày ngài hớn hở.
Yết Hồ trước kia dè,
Khuyển Nhung nay lại vớ.
Dĩa cúng bày thịt tanh,
Cung tên ngay phòng ở.
Từ cực tây, mong sao
Tới Sơn Đông, mệnh rõ.
Cửa vua rầm rầm vào,
Quan Trung dân đông đủ.
Phải, trái tướng nhận ra,
Đầu đuôi dân biết rõ.
Một sớm nhận lỗi mình,
Khắp nơi thu một chỗ.
Cày bừa thay dáo gươm,
Vừa lòng người lính thú.
Quan nhàn theo lối xưa,
Việc nông đều năng nổ.
Vua tôi tiết kiệm vừa,
Khắp nơi mừng vui lộ.
Trung hưng giống thuở đầu
Theo Thái Tông tiếp thụ.
Mạnh dạn dâng lời can,
Hoà khí ngày càng rộ.
Ao vua, anh đào cành,
Tơ vàng, óng ánh giỏ.
Lăng tẩm vững ngàn năm,
Sẽ mãi mãi còn đó.
Không cháy lại, kinh đô
Kinh, Vị hết trăn trở.
Quay về với bách tùng,
Lênh đênh già hết khổ.
(Năm 766)

[1] Hay Tây đô, chỉ Trường An.
[2] An Lộc Sơn là người gốc Hồ.
[3] Thời xưa vua chúa lập miếu thờ tổ tiên, đặt chính giữa là bài vị ông tổ sáng lập, bên trái là tam chiêu (thế hệ thứ 2, 4, 6), bên phải là tam mục (thế hệ thứ 3, 5, 7), cộng chung là bảy. Vương Mãng 王莽 tăng tổ miếu lên năm, thân miếu bốn thành chín miếu.
[4] Chỉ phía vua, thường là phía bắc. Các chư hầu hướng về phương bắc mà lạy.
[5] Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ và Đường Minh Hoàng lên làm thái thượng hoàng ở đất Thục.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Vãng tại