29/03/2024 12:17Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kim Lăng dịch kỳ 1
金陵驛其一

Tác giả: Văn Thiên Tường - 文天祥

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 05/12/2007 07:15

 

Nguyên tác

草合離宮轉夕暉,
孤雲飄泊復何依?
山河風景元無異,
城郭人民半已非。
滿地蘆花和我老,
舊家燕子傍誰飛?
從今別卻江南路,
化作啼鵑帶血歸。

Phiên âm

Thảo hợp ly cung[1] chuyển tịch huy,
Cô vân phiêu bạc phức hà y?
Sơn hà phong cảnh nguyên vô dị,
Thành quách nhân dân bán dĩ phi[2].
Mãn địa lô hoa hoà ngã lão,
Cựu gia yến tử bạng thuỳ phi[3]?
Tòng kim biệt khước Giang Nam lộ,
Hoá tác đề quyên đới huyết quy[4].

Dịch nghĩa

Ly cung cỏ ngợp trời đã về chiều
Áng mây lẻ loi trôi dạt biết dựa về đâu?
Cảnh non sông không có gì thay đổi
Chỉ thành quách và con người đã khác một nửa
Đất ngập hoa lau và ông già và ta
Chim én nhà cũ nay bay vào nhà nào
Từ nay vĩnh biệt con đường Giang Nam
Hoá thành cuốc kêu rớm máu bay về

Bản dịch của Đông A

Cỏ ngợp hành cung bóng tịch dương,
Mây cô phiêu bạc lớp nào vương.
Non sông phong cảnh không thay đổi,
Thành quách nhân dân nửa thảm thương.
Khắp chốn hoa lau tàn giống tớ,
Nhà xưa chim én lượn đâu nương.
Từ nay giã biệt Giang Nam mãi,
Hoá cuốc về kêu rỏ máu trường.
Bài này tuyển từ Văn Sơn tiên sinh toàn tập quyển 14, bản Gia Tĩnh đời Minh. Thơ làm vào tháng 3 năm Tường Hưng thứ 2 (1279), trên đường ông bị giải vào triều Nguyên ở Yên Kinh. Đường qua Kim Lăng, với nỗi buồn đau tột cùng, non sông như cũ, còn nhân sự thì đã thay đổi đến mức tối tăm trời đất, sao khỏi ruột đau như thắt, nước mắt hết chảy theo ra là máu và tác giả đã khẳng định mình đem thân chết vì việc nước.

[1] Tức hành cung. Khi Tống Cao Tông mới vượt sông sang bờ nam, từng lưu lại một thời gian ngắn ở Kim Lăng, có xây hành cung, nay chỉ còn là cỏ mọc rậm.
[2] Sách Sưu thần hậu ký có chép: Ở Liêu Đông có người tên Đinh Lệnh Uy tới núi Linh Hư học đạo, sau hoá thành chim hạc bay về đất Liêu, đậu trên cột hoa biểu ở cổng thành. Có cậu thiếu niên giương cung định bắn, hạc bay lên không trung mà ca rằng: “Hữu điểu, hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ gia thiên niên kim thuỷ quy; Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên trủng luỹ luỹ” (Có chim, có chim Đinh Lệnh Uy, Xa nhà ngàn năm nay mới về; Thành quách như xưa, dân đã khác, Sao không học đạo mộ trùng trùng). Chiến tranh Tống - Nguyên, Kim Lăng chiến hoạ, dân bị tử vong quá nửa.
[3] Lưu Vũ Tích thời Đường có bài thơ Ô y hạng, trong đó có câu “Cựu thì Vương Tạ tiền đường yến, Phi nhập tầm thường bách tính gia” (Chim én ở nhà họ Vương, họ Tạ ngày trước, Giờ bay vào nhà dân thường).
[4] Đỗ quyên còn gọi là đỗ vũ hay tử quy là chim cuốc. Tương truyền do vua Thục mất nước hoá thành. Tiếng kêu ai oán như rỏ máu. Nguyễn Du khi đi sứ sang Trung Quốc có làm bài thơ Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng (Qua sông Hoài nhớ Văn thừa tướng), trong đó có câu “Ai trung xúc xứ minh kim thạch, Oán huyết quy thì hoá đỗ quyên” (Lòng thơm chạm trổ lời kim thạch, Máu hận trào sôi kiếp tử quy - Quách Tấn dịch).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Văn Thiên Tường » Kim Lăng dịch kỳ 1