[1] Chai nhỏ bằng ngọc. Do chữ "ngọc hồ băng" 玉壺冰 chỉ sự thanh bạch, liêm khiết, trung kiên một lòng của quan lại. Ðời Ðường dùng chữ "băng hồ" 冰壺 là bình nước lạnh băng để chi lòng liêm khiết của quan lại. Lời tựa bài "Băng hồ giới" 玉壺誡 của Diêu Sùng 姚崇 có câu: "Phu động triệt vô hà, trừng không kiến để, đương quan minh bạch giả, hữu loại thị hô! Cố nội hoài băng thanh, ngoại hàm ngọc nhuận, thử quân tử băng hồ chi đức dã" 夫洞澈無瑕,澄空見底,當官明白者,有類是乎!故內懷冰清,外涵玉潤,此君子冰壺之德也 (Hang nước trong vắt, nhìn rõ đến đáy, tâm người làm quan phải được như thế. Do vậy, trong lòng trong như nước lặng, ngoài sáng như thấm nhuần nước bình ngọc, người quân tử này có đức độ vậy).
Thơ "Phù Dung lâu tống Tân Tiệm" 芙蓉樓送幸漸 của Vương Xương Linh 王昌齡:
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
寒雨連江夜入吳,
平明送客楚山孤。
洛陽親友如相問,
一片冰心在玉壺。
(Vào Ngô mưa lạnh sụt sùi,
Ngày mai núi Sở lẻ loi tiễn người.
Lạc Dương có hỏi bạn ơi,
Lòng này dám ví nước chai ngọc rồi.)
[2] Phật sống, người có đức độ cao, được trọng vọng.
[3] Chỉ chuyện làm quan. Phan Nhạc 潘岳 làm quan đời Tấn 晉, lúc còn làm quan ở huyện Hà Dương, cho trồng hoa đào khắp huyện. Bài "Bán Nhật thôn" 半日村của Tiền Khởi 錢起 đời Ðường: "Tự thán Mai sinh đầu tự tuyết, Khước liên Phan lệnh huyện như hoa" 自歎枚生頭自雪,卻憐潘令縣如花 (Thương vì tuổi hạc chàng Mai, Trồng hoa đầy huyện tiếc hoài ông Phan).
[4] Do chữ "liễu diệp", chỉ chia ly nhớ nhung. Thời Nam Bắc triều 南北朝 có khúc nhạc nhạc phủ tên là "Chiết dương liễu chi" 折楊柳枝 tả cảnh buồn bã, dùng dằng trong buổi chia tay:
Thướng mã bất thóc tiên,
Phản ảo dương liễu chi.
Há mã xuy hoành địch,
Sầu sát hành khách nhân.
上馬不捉鞭,
反拗楊柳枝。
下馬吹橫笛,
愁殺行客人。
(Lên yên cương chẳng cầm dây,
Vin tay uốn gãy cành cây liễu buồn.
Dùng dằng cầm sáo xuống yên,
Véo von tiễn biệt héo hon lòng người.)