24/04/2024 20:56Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tuý ca hành
醉歌行

Tác giả: Hồ Thiên Du - 胡天遊

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/12/2018 10:01

 

Nguyên tác

醉中豪氣如長虹,
走上高樓叫天公。
問天開辟今幾年,
有此日月何因緣。
月者陰之魄,
日者陽之精。
陰陽果何物,
產此團團形。
一如白玉盤,
一似黃金鉦。
得非冶鑄出,
無乃磨琢成。
茫茫太古初,
二氣才胚胎。
金烏從何出,
玉兔從何來。
扶桑誰人种,
桂樹何年栽。
東升何所自,
西沒從何游。
胡為天地間,
奔走不暫休。
但見朝朝暮暮無定輈,
但見波波汲汲如奔郵。
催得黃童變白叟,
催得華屋成荒丘。
催得秦王漢楚忽坏土,
催得黃河碧海無縴流。
我有如澠酒,
勸天飲一石。
愿天垂長繩,
係此鳥兔翼。
一懸天之南,
一挂天之北。
安然不動照萬國,
無冬無夏無旦夕。
百年三萬六千作一刻,
盡使世人老不得。

Phiên âm

Tuý trung hào khí như trường hồng,
Tẩu thướng cao lâu khiếu thiên công.
Vấn thiên khai tịch kim kỷ niên?
Hữu thử nhật nguyệt hà nhân duyên.
Nguyệt giả âm chi phách,
Nhật giả dương chi tinh.[1]
Âm dương quả hà vật,
Sản thử đoàn đoàn hình?
Nhất như bạch ngọc bàn,
Nhất tự hoàng kim chinh.
Đắc phi dã chú xuất,
Vô nãi ma trác thành.
Mang mang thái cổ sơ,
Thị khí tài phôi thai.[2]
Kim ô[3] tòng hà xuất,
Ngọc thố[4] tòng hà lai.
Phù tang[5] hà nhân chủng,
Quế thụ[6] hà niên tài.
Đông thăng hà sở tự,
Tây một tòng hà du.
Hồ vi thiên địa gian,
Bôn tẩu bất tạm hưu.
Đãn kiến triêu triêu mộ mộ vô định châu,
Đãn kiến ba ba cấp cấp như bôn bưu.
Thôi đắc hoàng đồng biến bạch tẩu,
Thôi đắc hoa ốc thành hoang khâu.
Thôi đắc Tần vương, Hán, Sở hốt bầu thổ[7],
Thôi đắc Hoàng Hà bích hải vô khiên lưu.
Ngã hữu như Thằng tửu[8],
Khuyến thiên ẩm nhất thạch.
Nguyện thiên thuỳ trường thằng,
Hệ thử ô thỏ dực.
Nhất huyền thiên chi nam,
Nhất quải thiên chi bắc.
An nhiên bất động chiếu vạn quốc,
Vô đông vô hạ vô đán tịch.
Bách niên tam vạn lục thiên tác nhất khắc,
Tận sử thế nhân lão bất đắc.

Dịch nghĩa

Khi say khí thế như cầu vồng dựng
Chạy lên lầu cao hỏi ông trời
Trời mở ra đến nay được mấy năm
Vì sao mà có mặt trăng mặt trời
Mặt trăng là tinh lực của âm
Mặt trời là tinh tuý của dương
Âm dương đúng ra là vật gì
Mà sinh ra hình tròn tròn
Một thì như cái mâm bạch ngọc
Một lại giống cái chiêng vàng
Có được không phải đúc mà ra
Cũng không do gọt giũa mà thành
Từ hồi thái cổ mịt mùng
Hai khí đó mới vừa phôi thai
Quạ vàng từ đâu mà ra
Thỏ ngọc từ đâu mà đến
Ai là người trồng cây phù tang
Cây quế trồng năm nào
Mặt trời từ đâu mọc đàng đông
Lặn đàng tây rồi về đâu
Làm loạn cả trời đất
Chạy vạy không khi nào tạm dừng
Chỉ thấy sáng chiều cái càng xe không đứng im
Mà cứ long đong như phu trạm
Giục trẻ con thành ông già
Khiến nhà cao đẹp thành gò hoang
Vua Tần, Hán, Sở cũng thành mô đất
Làm cho Hoàng Hà chảy về biển không ngừng
Ta có rượu đầy như nước sông Thằng
Mời trời uống một tạ
Xin trời thả xuống cái giây dài
Buộc cánh quạ chân thỏ lại
Đem treo, một ở trời nam
Một treo ở trời bắc
Đứng im không động chiếu muôn nước
Không đông, hạ không sáng chiều
Trăm năm ba vạn sáu nghìn ngày dồn vào một giờ
Khiến con người không già được.

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Như cầu vồng say hào khí dựng
Tít lầu cao lên đứng hỏi trời
Mở trời nay mấy năm rồi
Cớ sao lại có mặt trời mặt trăng
Tinh lực âm trăng vàng mát dịu
Mặt trời là tinh tuý của dương
Âm dương cần hỏi cho tường
Sinh ra hai vật dáng trông tròn tròn
Một hình như cái mâm ngọc trắng
Còn vật kia lại giống chiêng vàng
Cả hai có được khác thường
Không qua gọt rũa, chẳng bằng đúc hun
Cõi mịt mùng xa xăm thái cổ
Hai khí này mới ở phôi thai
Kim ô ngọc thỏ cả hai
Từ đâu mà có do lai thế nào
Cây phù tang từ đâu nên thế
Từ năm nào cây quế trồng nên
Mặt trời sao tự đông lên
Đàng tây khi lặn về miền nào chơi
Cứ rối ren đất trời loạn cả
Chạy vạy hoài tất tả trên đường
Càng xe sớm tối chẳng dừng
Cứ như phu trạm long đong suốt ngày
Giục tóc xanh chóng thay tóc bạc
Nhà đẹp trong phút chốc còn đâu
Vua Tần, Hán, Sở vùi sâu
Hoàng Hà về biển chảy bao giờ ngừng
Ta có rượu nhiều ngang Thằng thuỷ
Uống trăm cân thành ý mời trời
Mong Trời thả sợi dây thôi
Buộc thỏ quạ lại hết thời chạy bay
Một thì đem treo ngay mạn bắc
Một mạn nam thật chắc cả đôi
Đứng yên muôn nước chiếu soi
Không đông không hạ không ngày không đêm
Một khắc thôi trăm năm dồn lại
Để đời người chẳng phải già đi
Bài thơ này làm vào khoảng cuối đời, khi mà việc nước việc nhà đều bất đắc ý. Ý thơ phỏng theo bài Thiên vấn của Khuất Nguyên, say hỏi trời để giải toả nỗi buồn.

[1] Người xưa phân biệt mặt trời, mặt trăng thành tột cùng của dương và âm.
[2] Ý nói thuở ban đầu của thời thái cổ xa xưa, hai khí âm, đương trình hiện trạng thái nguyên thuỷ.
[3] Chỉ mặt trời. Tương truyền trong mặt trời có con quạ ba chân.
[4] Thỏ trong cung trăng, đây chỉ mặt trăng.
[5] Cây thần, xưa cho đây là nơi mặt trời mọc.
[6] Truyền thuyết trong trăng có cây quế, thỏ ngọc hái thuốc ở bên dưới.
[7] Nắm đất, ví công nghiệp của các bậc đế vương, chỉ một cái búng ngón tay trở thành đất bụi.
[8] Tả truyện - Chiêu Công nhị thập niên: “Hữu tửu như Thằng, hữu nhục như lăng” (Rượu nhiều như nước sông Thằng, thịt chất cao như quả đồi). Thằng chỉ Thằng thuỷ, chảy qua huyện Lâm Tri nước Tề, nhập vào Thì thuỷ ở phía bắc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Hồ Thiên Du » Tuý ca hành