23/04/2024 14:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tế Lâm dạ khốc
細林夜哭

Tác giả: Hạ Hoàn Thuần - 夏完淳

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Minh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/02/2019 16:39

 

Nguyên tác

細林山上夜烏啼,
細林山下秋草齊。
有客扁舟不系纜,
乘風直下松江西。
卻憶當年細林客,
孟公四海文章伯。
昔日曾來訪白雲,
落葉滿山尋不得。
始知孟公湖海人,
荒臺古月水粼粼。
相逢對哭天下事,
酒酣睥睨意氣親。
去歲平陵鼓聲死,
與公同渡吳江水。
今年夢斷九峰雲,
旌旗猶映暮山紫。
瀟灑秦庭淚已揮,
彷彿聊城矢更飛。
黃鵠欲舉六翮折,
茫茫四海將安歸。
天地跼蹐日月促,
氣如長虹葬魚腹。
腸斷當年國士恩,
剪紙招魂為公哭。
烈皇乘雲御六龍,
攀髯控馭先文忠。
君臣地下會相見,
淚灑閶闔悲生風。
我欲歸來振羽翼,
誰知一舉入羅弋。
家世堪憐趙氏孤,
到今竟作田橫客。
嗚呼!
撫膺一聲江雲開,
身在羅網且莫哀。
公乎!公乎!
為我築室傍夜臺,
霜寒月苦行當來。

Phiên âm

Tế Lâm sơn thượng dạ ô đề,
Tế Lâm sơn hạ thu thảo tê.
Hữu khách biển Chu bất hệ lãm,
Thừa phong trực há Tùng giang[1] tê (tây).
Khước ức đương niên Tế Lâm khách[2],
Mạnh công[3] tứ hải văn chương bá.
Tích nhật tằng lai phỏng bạch vân[4],
Lạc diệp mãn sơn tầm bất đắc.
Thuỷ tri Mạnh công hồ hải nhân[5],
Hoang đài cổ nguyệt thuỷ lân lân.
Tương phùng đối khốc thiên hạ sự,
Tửu hàm bễ nghễ ý khí thân.
Khứ tuế[6] Bình Lăng[7] cổ thanh tử,
Dữ công đồng độ Ngô Giang thuỷ.
Kim niên[8] mộng đoạn cửu phong[9] vân,
Tinh kỳ do ánh mộ sơn tử.
Tiêu sái Tần đình lệ[10] dĩ huy,
Phảng phất Liêu Thành[11] thỉ cánh phi.
Hoàng hộc[12] dục cử lục cách chiết,
Mang mang[13] tứ hải tương an quy.
Thiên địa cục tích nhật nguyệt xúc,
Khí như trường hồng táng ngư phúc[14].
Trường đoạn đương niên quốc sĩ ân[15],
Tiễn chỉ chiêu hồn vị công khốc.
Liệt Hoàng[16] thừa vân ngự lục long[17],
Phan nhiêm khống ngự tiên Văn Trung[18].
Quân thần địa hạ hội tương kiến,
Lệ sái Xương Hạp[19] bi sinh phong.
Ngã dục quy lai chấn vũ dực,
Thuỳ tri nhất cử nhập la dặc.
Gia thế kham lân Triệu thị cô[20],
Đáo kim cánh tác Điền Hoành[21] khách.
Ô hô!
Phủ ưng nhất thanh giang vân khai,
Thân tại la võng thả mạc ai.
Công hồ! Công hồ!
Vị ngã trúc thất bạng dạ đài[22],
Sương hàn nguyệt khổ hành đương lai.

Dịch nghĩa

Quạ kêu đêm trên núi Tế Lâm
Chân núi Tế Lâm cỏ thu mọc đều
Có người khách thả thuyền không buộc
Gió đưa thẳng xuống phía tây Tùng giang
Nhớ năm đó vị khách Tế Lâm
Mạnh công, vị bá văn chương trong bốn biển
Trước đây từng đến đây thăm mây trắng
Lá rơi khắp núi tìm không được
Mới biết ông là người hồ hải
Đài hoang trăng cồ nước trong veo
Gặp nhìn nhau chỉ khóc việc thiên hạ
Mắt say ngạo nghễ nhìn ý khí thân thiết
Năm qua tiếng trống ở Bình Lăng dứt
Cùng với ông vượt sông Ngô
Năm nay dứt giấc mơ chín ngọn núi
Cờ xí còn ánh đỏ núi chiều
Giọt lệ sân Tần hào hùng đã gạt
Tên trên Liêu Thành phảng phất còn
bay Hoàng hộc muốn bay bị gãy cánh
Mênh mang bốn biển biết về đâu
Trời đất hẹp năm tháng ngắn ngủi
Khí phách như cầu vồng thân chôn bụng cá
Năm đó dứt ruột vì ơn bậc quốc sĩ
Cắt giấy chiêu hồn để khóc ông
Liệt Hoàng nương mây cưỡi sáu rồng
Vin râu rồng mang theo tiên phụ Văn Trung
Dưới suối vàng vua tôi lại gặp nhau
Lệ sa ở cửa Xương Hạp gió buồn nổi
Ta muốn về để gây lại lông, cánh
Biết đâu bị sa vào lưới bẫy ngay
Đáng thương cho cảnh con côi họ Triệu
Đến nay lại làm khách của Điền Hoành
Ô hô!
Một tiếng vỗ ngực mây sông mở ra
Thân nằm trong lưới cũng không buồn
Ông ơi! Ông ơi!
Hãy dựng nhà cho tôi bên dạ đài
Đang đến đây, sương lạnh trăng úa.

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Trên Tế Lâm đêm nghe tiếng quạ
Chân Tế Lâm ngọn cỏ thu bằng
Thuyền con khách thả chẳng ràng
Gió tây chiều thuận Tùng giang mái về
Khách Tế Lâm nhớ từ năm đó
Tiếng Mạnh công đời bá thơ văn
Trước đây mây trắng từng thăm
Lá rơi khắp núi đi tìm không ra
Bấy biết ông chí xa hồ hải
Nơi đài hoang trăng dãi nước trôi
Gặp nhau khóc kể việc đời
Mắt say ngạo nghễ ngất trời khí hăng
Năm ngoái trống Bình Lăng tiếng dứt
Còn theo ông cùng vượt sông Ngô
Năm nay chín núi dứt mơ
Chiếu sáng cờ xí còn tô non hồng
Lệ Tần đình hào hùng đã gạt
Tên Liêu Thành phảng phất còn bay
Hoàng hộc cánh gãy từ nay
Mênh mang bốn biển đâu hay mà về
Năm tháng ngắn hẹp bề trời đất
Bụng cá chôn khí ngất cầu vồng
Ơn quốc sĩ nát tan lòng
Chiêu hồn cắt giấy khóc ông lúc này
Cưỡi sáu rồng nương mây Liệt Đế
Vin râu mang tiên phụ Văn Trung
Vua tôi chín suối trùng phùng
Lệ sa Xương Hạp não nùng gió sinh
Ta muốn về vươn mình cánh vẫy
Có biết đâu mắc phải lưới giăng
Con côi họ Triệu đáng thương
Mà nay làm khách nghĩa trung Điền Hoành
Ô hô!
Một vỗ ngực mây lành sông mở
Thân lao tù chẳng tỏ bi ai
Ông ơi! Ông ơi!
Cất nhà tôi cạnh dạ đài
Hẹn nhau sương lạnh trăng còi đến ngay
Tế Lâm là tên núi, tên cũ là Thần Sơn, nay ở cách phía nam thành phố Thượng Hải hai mươi dặm. Bài này tác giả làm vào năm Thuận Trị thứ 4, khi quân Thanh đến Giang Nam, sau khi Trần Tử Long khởi binh thất bại, đem gia đình ở lánh về Tây Mão, tác giả thường qua lại núi Tế Lâm và núi Sa Sơn. Trần Tử Long chết vì nạn nước chưa lâu, Hạ Hoàn Thuần cũng bị bắt. Trên đường bị giải về Nam Kinh, đi qua Tế Lâm, trước cảnh sinh tình, tác giả viết để tỏ rõ vô cùng thương sót Trần đã chết vì nạn nước, và cũng tỏ quyết tâm đi theo xuống suối vàng.

[1] Tức Ngô Tùng giang.
[2] Chỉ Trần Tử Long.
[3] Cuối đời Trần Tử Long lấy hiệu là Ư Lăng Mạnh công.
[4] Tức bạch vân hương, nơi ở của tiên, đây chỉ nơi ở của Trần Tử Long.
[5] Người có chí khí mạnh mẽ.
[6] Chỉ việc năm Thuận Trị thứ 3, Ngô Dị khởi quân thất bại.
[7] Dùng điển trong bài nhạc phủ Bình Lăng Đông đời Hán. Địch Nghĩa cuối Tây Hán khởi quân chống Vương Mãng, quân thua rồi chết.
[8] Chỉ năm Thuận Trị thứ 4, Trần Tử Long khởi quân.
[9] Núi Tế Lâm ở Tùng giang và các núi khác gọi là chín núi (cửu phong).
[10] Thời Xuân Thu, Ngô phá Sở, Thân Bao Tư vào Tần xin quân cứu viện đứng khóc ở sân triều đình Tần bảy ngày.
[11] Thời Chiến Quốc, Yên đánh Tề, hạ gần hết thành nước Tề, Điền Đan phá Yên khôi phục lại nước Tề. Quân Yên giữ Liêu Thành, mãi quân Tề không hạ được. Lỗ Trọng Yên buộc thư bắn vào trong thành kêu gọi tướng Yên, quân Yên bỏ thành mà đi.
[12] Tên chim tích lệ. Sở từ: “Hoàng hộc chi nhất cử hề, tri sơn xuyên chi vu khúc; Tái cử hề, đổ thiên địa chi viên phương” (Chim hoàng hộc một lần cất cánh, biết núi sông dài rộng; Lần thứ hai cất cánh, thấy đất trời vuông tròn).
[13] Khi quân Ngô Dị thua, Trần Tử Long từng cảm khái than: “Mang mang thiên địa tương an chi hồ!” (Mênh mang trời đất biết là về đâu).
[14] Xác chôn bụng cá, chỉ việc Trần Tử Long đâm đầu xuống nước chết.
[15] Cuối Xuân Thu, Dự Nhượng vì Trí Bá mà hành thích Tương Tử, nói: “Trí Bá đãi tôi như quốc sĩ, nên tôi báo đáp ông ấy như quốc sĩ”. Ý câu này là Trần Tử Long rất hiểu Hạ Hoàn Thuần.
[16] Tên thuỵ của Sùng Trinh Chu Do Kiểm là Tráng Liệt Mẫn Hoàng Đế.
[17] Dùng điển Hoàng Đế cưỡi rồng lên trời, các bề tôi vin vào râu rồng cùng lên.
[18] Chỉ thân phụ của tác giả là Hạ Doãn Di. Nhà Minh mất, ông chết theo nạn nước, được đặt tên thuỵ là Trung Tiết.
[19] Cửa nhà trời trong truyền thuyết.
[20] Thời Xuân Thu, Đồ Ngạn Giả giết cả nhà Triệu Thuẫn, môn nhân họ Triệu là Trình Anh và Công Tôn Chử Cữu cứu nuôi con côi là Triệu Vũ Tử thành người, báo được thù cho cả nhà. Ở đây tác giả đem Trình Anh và Công Tôn Chử Cữu ví với Trần Tử Long, còn ví mình là Triệu Vũ. Sau khi Hạ Doãn Di chết vì việc nước, Hoàn Thuần nhận được sự chăm sóc của Trần Tử Long.
[21] Thời Hán Sở, Điền Hoành tự lập làm Tề vương, đem năm trăm tráng sĩ ra ngoài biển. Hán Cao Tổ lên ngôi chiêu hàng Điền Hoành, Điền về kinh đến nửa đường thì tự sát, năm trăm tráng sĩ trên đảo biết tin cũng đều tự sát. Ở đây đem Điền Hoành ví với Trần Tử Long, còn mình ví với tráng sĩ.
[22] Nấm mồ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Hạ Hoàn Thuần » Tế Lâm dạ khốc