25/04/2024 08:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tiêu tự thần chung
蕭寺晨鐘

Tác giả: Nguyễn Cư Trinh - 阮居楨

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/08/2014 03:21

 

Nguyên tác

晨風搖落露花拋,
迢遞孤聲過樹捎。
金獸哮殘星海渚,
木鯨打落月村坳。
萬家醒夢佛朝闕,
入水開顏僧下巢。
待扣堪怜禪亦有,
不鳴鳴得太陽交。

Phiên âm

Thần phong dao lạc lộ hoa phao,
Thiều đệ cô thanh quá thụ sao.
Kim thú[1] hao tàn tinh hải chử,
Mộc kình[2] đả lạc nguyệt thôn ao[3].
Vạn gia tỉnh mộng Phật triều khuyết,
Bát thuỷ khai nhan tăng hạ sào.
Đãi khấu kham linh thiền diệc hữu,
Bất minh, minh đắc thái dương giao.

Dịch nghĩa

Ngọn gió sớm lay rơi hạt sương móc đọng ở các hoa,
Xa xa có tiếng chuông ngân qua các ngọn cây.
Thú vàng kêu mãi đến lúc sao lặn bên bờ biển,
Kình gỗ nện mãi đến lúc trăng rơi khỏi trước rãnh nhà.
Muôn nhà nghe tiếng chuông thì tỉnh mộng đi chầu lạy Phật,
Nhà sư nghe tiếng chuông sớm cũng dạy đi làm việc công đức.
Rất thương vị sư đương chờ đợi tiếng chuông chùa vang lên,
Không gõ thì thôi, đã gõ thì gõ cho đến lúc thái dương hiện ra.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Gió sớm rung hoa rụng giọt sương
Xa qua cây lá lọt hồi chuông
Thú vàng kêu tắt sao trên biển
Kình gỗ nện rơi trăng xuống mương
Tỉnh mộng vạn nhà chầu cửa Phật
Nghiêm trang sư dậy đốt đèn hương
Thật thương đợi gõ sư già lão
Gõ đến kêu vang thức thái dương.
Bài thơ này tác giả hoạ bài Tiêu tự thần chung trong Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích. Chùa Tiêu còn gọi là chùa Phù Dung cổ, ở tại hướng tây nam núi Phù Dung, cách chùa Phù Dung mới 500m, nay ở phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, người Hà Tiên, thì chùa Phù Dung ấy bị quân Xiêm phá sập trong khoảng năm 1833-1834, tức lần tao loạn đầu tiên, nay chỉ còn nền chùa và tháp cổ còn nguyên tấm bia đá có khắc dòng chữ Hán: “Lâm Tế tam thập lục thế Ấn Đàm lão hoà thượng chi tháp”. Nhà sư này sống cùng thời với Mạc Cửu.

[1] Tức con bồ lao đúc trên chuông đồng nên gọi là kim thú.
[2] Cái chày làm bằng gỗ, hình con cá kình dùng để đánh chuông.
[3] Vốn là chữ “ao đường” 坳堂, nghĩa là chỗ lõm xuống có nước, ta cũng gọi là ao mương.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Cư Trinh » Tiêu tự thần chung