06/11/2024 00:10Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 25/03/2010 19:20
Nguyên tác
萍蹤粳蹟帶浮名,
官格叨承分外榮。
金馬驟遷光舊券,
華駢早駕試新程。
桑蓬自有男兒志,
雲樹能無故友情。
軫翼吾封頻顧眄,
紫宸環拱絢文星。
Phiên âm
Bình tung ngạnh tích đới phù danh,
Quan cách thao thừa phận ngoại vinh.
Kim mã[1] sậu thiên quang cựu khoán,
Hoa biền[2] tảo giá thí tân trình.
Tang bồng[3] tự hữu nam nhi chí,
Vân thụ[4] năng vô cố hữu tình.
Chẩn Dực[5] ngô phong tần cố miện,
Tử thần hoàn củng[6] huyến văn tinh.Dịch nghĩa
Tấm thân bèo rác mang danh tiếng hão
Lạm được ân vinh vượt quá phận mình
Chốn Hàn lâm được đến nhanh làm rạng nếp nhà xưa
Xe sứ giả sớm thắng ngựa, thử cuộc hành trình mới
Cung dâu, tên nỏ tự mình có chí nam nhi
Mây tối, cây xuân không thể thiếu tình bằng hữu
Ngoảnh trông nước non vùng sao Dực Chẩn
Thấy các sao văn rạng ngời quanh điện tíaBản dịch của Ngô Linh Ngọc
Tấm thân bèo rác luỵ phù danh
Lạm được ân vinh quá phận mình
Bên cửa Hàn lâm bừng nếp cũ
Thử nghề sứ sự thắng cương nhanh
Cung dâu tên nỏ hằng nuôi chí
Mây tối cây xuân luống nặng tình
Ngoảnh ngắm nước non vùng Dực Chẩn
Sao văn điện tía rạng ngời quanh
[1] Tức chốn Hàn lâm, vốn là cửa cung, có từ đời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế thường gặp các vị Hàn lâm học sĩ ở đó. Ở đây tác giả tự nói về mình khi vừa ra làm quan với nhà Tây Sơn liền được bổ chức Hàn lâm viện thị thư.
[2] Tức xe sứ giả, loại xe dùng cho người đi sứ.
[3] Tức “cung dâu, tên nỏ”. Ngày xưa khi sinh con trai, người ta thường treo cung bằng cành dâu, tên bằng cỏ bồng với ý muốn con trai sau này sẽ có chí tung hoành bốn phương.
[4] Nghĩa là “mây tối, cây xuân”, được rút từ trong hai câu thơ của Đỗ Phủ gửi Lý Bạch: “Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Đông nhật mộ vân” (Cây xuân miền Vị Bắc, Mây tối chốn Giang Đông), để nói về tình cảm bạn bè khi ở xa nhau rất nhớ nhau.
[5] Tên hai ngôi sao trong nhị thập bát tú, những ngôi sao mọc ở phương nam. Tác giả muốn chỉ vùng trời nước ta.
[6] Tác giả lưu luyến từ biệt những người bạn ở kinh đô.