12/05/2024 06:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đầu tặng Kha Thư khai phủ Hàn nhị thập vận
投贈哥舒開府翰二十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/03/2015 17:11

 

Nguyên tác

今代麒麟閣,
何人第一功。
君王自神武,
駕馭必英雄。
開府當朝傑,
論兵邁古風。
先鋒百勝在,
略地兩隅空。
青海無傳箭,
天山早掛弓。
廉頗仍走敵,
魏絳已和戎。
每惜河湟棄,
新兼節制通。
智謀垂睿想,
出入冠諸公。
日月低秦樹,
乾坤繞漢宮。
胡人愁逐北,
宛馬又從東。
受命邊沙遠,
歸來禦席同。
軒墀曾寵鶴,
畋獵舊非熊。
茅土加名數,
山河誓始終。
策行遺戰伐,
契合動昭融。
勳業青冥上,
交親氣概中。
未為珠履客,
已見白頭翁。
壯節初題柱,
生涯獨轉蓬。
幾年春草歇,
今日暮途窮。
軍事留孫楚,
行間識呂蒙。
防身一長劍,
將欲倚崆峒。

Phiên âm

Kim đại Kỳ Lân các,
Hà nhân đệ nhất công.
Quân vương tự thần vũ,
Giá ngự tất anh hùng.
Khai phủ đương triều kiệt,
Luận binh mại cổ phong.
Tiên phong bách thắng tại,
Lược địa lưỡng ngung không.
Thanh Hải[1] vô truyền tiễn,
Thiên Sơn[2] tảo quải cung.
Liêm Pha[3] nhưng tẩu Địch[4],
Nguỵ Giáng[5] dĩ hoà Nhung.
Mỗi tích Hà[6], Hoàng[7] khí,
Tân kiêm tiết chế thông.
Trí mưu thuỳ duệ tưởng,
Xuất nhập quán chư công.
Nhật nguyệt đê Tần thụ,
Càn khôn nhiễu Hán cung.
Hồ nhân sầu trục bắc,
Uyển mã hựu tòng đông.
Thụ mệnh biên sa viễn,
Quy lai ngự tịch đồng.
Hiên trì tằng sủng hạc,
Điền liệp cựu phi hùng[8].
Mao thổ[9] gia danh số,
Sơn hà thệ thuỷ chung.
Sách hành di chiến phạt,
Khế hợp động chiêu dung.
Huân nghiệp thanh minh thượng,
Giao thân khí khái trung.
Vị vi châu lý[10] khách,
Dĩ kiến bạch đầu ông.
Tráng tiết sơ đề trụ[11],
Sinh nhai độc chuyển bồng.
Kỷ niên xuân thảo hiết,
Kim nhật mộ đồ cùng.
Quân sự lưu Tôn Sở[12],
Hành gián thức Lữ Mông[13].
Phòng thân nhất trường kiếm,
Tương dục ỷ Không Đồng.

Dịch nghĩa

Đời này trong gác Kỳ Lân,
Ai là kẻ nêu công đầu.
Vua đương nhiên là đầy quyền uy,
Chỉ huy quân tất là mạnh mẽ.
Ngài khai phủ là người kiệt xuất của triều đình hiện giờ,
Bàn về quân sự vượt qua cả cách xử trí thời xưa.
Xung phong là trăm lần thắng,
Thám báo hai khúc quanh đều yên.
Nơi Thanh Hải không còn tên bay,
Chốn Thiên Sơn sớm treo cung.
Liêm Pha vẫn bám sát Địch thua chạy,
Nguỵ Giáng đã dàn hoà cùng Nhung.
Có một điều tiếc là bỏ vùng sông Hoàng Hà và sông Hoàng,
Mới đây được nắm luôn quyền chỉ huy trưởng.
Mưu mẹo ngang với bậc thánh,
Ra vào hơn các người khác.
Mặt trời, mặt trăng xà xuống gần cây đất Tần,
Đất trời bao quanh cung nhà Hán.
Người Hồ buồn vì bị truy kích về bắc,
Ngựa vùng Uyển lại đưa sang đông, về trung nguyên.
Theo lệnh trấn đóng vùng sa mạc nơi biên giới xa,
Khi đi về cùng ngồi trong triều để bàn bạc.
Thường được coi như con hạc được cưng đứng cạnh xe vua.
Khi nhà vua đi săn đã tìm ra được.
Đất cỏ tăng thêm một số nữa,
Thề nguyền với núi sông rằng sẽ tuân phục.
Khi thi hành kế sách thì loại bỏ việc diệt trừ,
Hoà hoãn thì khơi lòng rộng lượng tha thứ.
Công lao cao như trời xanh,
Đối đãi với bè bạn rất khí khái.
Riêng tôi chưa làm người đi dép đỏ,
Mà đã thành ông đầu bạc mất rồi.
Chí trai vừa mới viết trên cột,
Đời sống đã lênh đênh rồi.
Năm nao cỏ xuân héo,
Ngày nay ở vào cảnh cùng đường.
Lý thuyết quân sự còn truyền lại Tôn Sở,
Điều khiển binh lính biết có Lữ Mông.
Giữ mình có thanh gươm dài,
Lại muốn về nơi Không Đồng.

Bản dịch của Phạm Doanh

Ngày nay tên nêu Kỳ Lân gác,
Ai là người đáng bậc công đầu.
Nhà vua quả bậc tài cao,
Chỉ huy tỏ mặt anh hào ra tay.
Quan khai phủ triều này kiệt xuất,
Bàn việc quân còn vượt người xưa.
Xung phong trăm trận thắng thừa,
Do thám hai ngả không chừa tăm hơi.
Nơi Thanh Hải tên thôi bay lượn,
Chốn Thiên Sơn cung sớm treo lên.
Liêm Pha đuổi Địch sát bên,
Nguỵ Giáng giao hảo vững bền với Nhung
Một điều tiếc: Hà, Hoàng bỏ trống,
Lại trao thêm chức tổng hành quân.
Kĩ càng xếp dặt mưu thâm,
Tới lui vượt hẳn người tầm thường xa.
Cây Tần, trời trăng sà gần sát,
Vũ trụ này quanh quất Hán cung.
Về bắc Hồ chạy tới cùng,
Mà nay ngựa tốt phía đông lại về.
Được trao quyền gần kề biên giới,
Khi về triều cùng với vua bàn.
Là hạc, xe đứng cạnh bên,
Đi săn kiếm được người hiền giúp vua.
Chư hầu thêm số vừa thuần phục,
Cả non sông sau trước một lòng.
Kế sách đều nhắm bao dung,
Hoà giải cốt tránh không dùng binh đao
Công danh đã anh hào tột bực,
Với bạn bè rất mực nể nang.
Thân này dép đỏ chưa mang,
Thế mà đầu lại trắng bong mất rồi.
Trên cột cầu, chí trai mới viết,
Cuộc sinh nhai theo vết nổi trôi.
Năm nào cỏ tốt hết rồi,
Ngày nay chiều tối sa nơi cuối đường.
Nghề quân sự sánh cùng Tôn Sở.
Thuật dò la nhờ ở Lữ Mông.
Giữ thân có thanh gươm thiêng,
Định đem cắm ở Không Đồng xa kia.
(Năm 753)

Kha Thư Hàn (?-757) là thủ lĩnh của đoàn đột kỵ của quân đội nhà Đường (Tây đột quyết biệt bộ), là con của thủ lĩnh bộ lạc Kha Thư, thường được xưng là Kha Thư Đạo Nguyên 哥舒道元, gốc dân tộc ít người Thổ Phồn. Các dân tộc ít người thường lấy tên bộ lạc mình làm họ. Mới đầu giữ chức nha tướng cho Vương Trung Tự 王忠嗣, sau giữ chức tiết độ. Lập được nhiều công ở vùng Hà Tây (nay là Vũ Uy, Cam Túc), nên được phong là Bình tây quận vương. Năm Thiên Bảo giữ chức Lũng Hữu tiết độ sứ. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, Đường Huyền Tông cử Kha Thư Hàn thay Cao Tiên Chi trấn thủ Đồng Quan (Thiểm Tây). Do sức ép của Dương Quốc Trung buộc ông phải khai chiến với tướng Thôi Càn Hựu (phe An Lộc Sơn) thay vì cố thủ, đưa đến kết quả là toàn quân bị hại, ông bị bắt và dụ đầu hàng, nhưng ông từ chối. Sau bị An Khánh Thự (con An Lộc Sơn) giết.

[1] Một tỉnh rộng thứ nhì của Trung Quốc, ở phía tây bắc. Mang tên này nhờ hồ nước mặn Thanh Hải. Bắc có núi Kỳ Liên, nam có núi Ba Nhan Khách Lạt 巴顏喀喇山 (Bayar Har). Là địa bàn sinh hoạt của người Hồi, Tạng, Mãn, Mông. Khí hậu khe khắt.
[2] Dải núi thuộc trung bộ tỉnh Tân Cương, chia thành hai vùng Bắc Cương và Nam Cương.
[3] Người nước Triệu thời Chiến Quốc, giúp Triệu đánh bại Tề, Nguỵ. Trận Trường Bình chống Tần, khiến Tần nể sợ. Sau Tần dùng kế ly gián, nên bị bại. Cùng kết thân với Lạn Tương Như, sau bị dèm pha, cuối cùng bệnh chết ở nước Sở.
[4] Phiếm chỉ dân tộc ít người phía tây Trung Quốc thời phong kiến.
[5] Người nước Tấn thời Xuân Thu. Đã đề nghị với Tấn Điệu Công dùng chính sách hoà với Nhung sẽ mang lại 5 điều lợi lớn cho nước.
[6] Sông Hoàng Hà.
[7] Sông bắt nguồn từ đông bắc tỉnh Thanh Hải, chảy vào Cam Túc rồi đổ vào sông Hoàng Hà.
[8] Ví với việc Chu Văn Vương tìm ra Lã Vọng. Chu Văn Vương trù tính đi săn, quan trông coi việc bói toán nói: “Điền vu Vị dương, tương đại đắc yên, phi long phi ly, phi hổ phi bi, triệu đắc công hầu. Thiên di nhữ sư, dĩ chi tá xương, thi cập tam vương.” 田于渭阳,将大得焉,非龙非彨,非虎非罴,兆得公侯。天遗汝师,以之 佐昌,施及三王。 (Săn mé đông sông Vị, sẽ được lợi lớn, không giống long không giống ly, không giống hổ không giống bi, bói được công hầu. Trời cho ngươi để làm tướng, giúp đỡ ngươi đến cường thịnh, thi hành tới ba vua). Nhà vua ăn chay ba ngày, đi săn vùng sông Vị, gặp Khương Tử Nha ngồi trên bãi cỏ đang thả câu.
[9] Phần đất mà thiên tử phong cho chư hầu đề lập đàn giao. Tượng trưng uy quyền của thiên tử. Ở đây ý nói thêm một số các nước nhỏ thần phục.
[10] Dép dành cho khách nhà sang. Đỗ Phủ muốn nói mình chưa được hân hạnh diện kiến Kha Thư Hàn.
[11] Thề quyết chí lập công danh. Tư Mã Tương Như viết trên thành cầu “Nếu không thành danh, sẽ không trở lại cầu này”.
[12] Tự Tử Kinh (?-293), người Trọng Đô, Thái Nguyên (nay là Bình Diêu, Sơn Tây) đời Tây Tấn, có tài thao lược. Cuối đời Nguỵ làm tham mưu cho Trấn đông tướng quân Thạch Bao 石苞, sau vào đời Tấn giữ chức phù phong cho tư mã Vương Tuấn 王駿.
[13] Lữ Mông (178-219), tướng tài của nước Ngô thời Tam Quốc, lập mưu đoạt Kinh Châu, cầm cự cùng Quan Công.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Đầu tặng Kha Thư khai phủ Hàn nhị thập vận