18/04/2024 11:23Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đại Vân tự Tán công phòng kỳ 2
大雲寺贊公房其二

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/01/2015 13:02

 

Nguyên tác

細軟青絲履,
光明白氎巾。
深藏供老宿,
取用及吾身。
自顧轉無趣,
交情何尚新。
道林才不世,
惠遠德過人。
雨瀉暮簷竹,
風吹青井芹。
天陰對圖畫,
最覺潤龍鱗。

Phiên âm

Tế nhuyễn thanh ti lý,
Quang minh bạch điệp cân.
Thâm tàng cung lão túc,
Thủ dụng cập ngô thân.
Tự cố chuyển vô thú,
Giao tình hà thượng tân.
Đạo Lâm[1] tài bất thế,
Huệ Viễn[2] đức quá nhân.
Vũ tả mộ diêm trúc,
Phong xuy thanh tỉnh cần.
Thiên âm đối đồ hoạ,
Tối giác nhuận long lân.

Dịch nghĩa

Dép tơ xanh mềm mại,
Khăn lông mềm trắng tinh.
Nơi sâu kín xếp chỗ cho ông già nghỉ,
Những thứ cần dùng cho riêng mình.
Tự săn sóc nên hoá ra không thấy cần cái gì,
Việc gì phải làm mới mối quan hệ.
Tài của ngài Đạo Lâm ít có trên đời,
Đức của sư Huệ Viễn vượt mọi người.
Mưa chiều ướt trúc bên mái,
Gió thổi cần xanh bên giếng.
Trời âm u soi vào bức vẽ,
Thấy rõ vẩy rồng thấm ướt.

Bản dịch của Phạm Doanh

Dép tơ xanh mềm mại,
Khăn lông trắng sáng ngời.
Dành sẵn đủ cho lão,
Lấy dùng đúng cho người.
Tự làm nên thấy đủ,
Tình bạn chẳng cần mời.
Đạo-lâm người hiếm có,
Huệ Viễn đức nhất đời.
Cần giếng xanh, gió thổi,
Màn trúc chiều, mưa rơi.
Vùng tối dọi bức vẽ,
Mới thấy vẩy rồng tươi
(Năm 757)

[1] Tức Kỳ Độn 支遁 (314-366), tự là Đạo, lâm biệt hiệu là Kỳ Hình 支硎, tên tục có họ là Quan 關, người Trần Lưu (Khai Phong, Hà Nam), có sách lại ghi là Lâm Lư, Hà Đông, là một hoà thượng thời Đông Tấn, giỏi về viết thảo, lệ, am hiểu nhiều về Lão Trang. Ở ẩn trong vùng núi Dư Hàng. Người đời thường gọi là Kỳ công 支公, Lâm công 林公.
[2] Huệ Viễn (334-416), một nhà sư đời Tấn, họ Cổ 賈, nguyên quán Lâu Phiền, Nhạn Môn (thuộc tỉnh Sơn Tây). Sau khi viên tịch, tháp của nhà sư được xây ở phía tây núi Lư và tên hiệu sau khi chết là Lư Sơn tôn giả.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Đại Vân tự Tán công phòng kỳ 2