26/09/2023 16:00Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/05/2015 11:15

Nguyên tác
湖闊兼雲霧,
樓孤屬晚晴。
禮加徐孺子,
詩接謝宣城。
雪岸叢梅發,
春泥百草生。
敢違漁父問,
從此更南征。
Phiên âm
Hồ khoát kiêm vân vụ,
Lâu cô thuộc vãn tình.
Lễ gia Từ Nhụ Tử[1],
Thi tiếp Tạ Tuyên Thành[2].
Tuyết ngạn tùng mai phát,
Xuân nê bách thảo sinh.
Cảm vi ngư phụ vấn,
Tòng thử cánh nam chinh.Dịch nghĩa
Hồ rộng kèm mây mù,
Lầu cô quạnh trong buổi chiều tạnh.
Về lễ, có thêm được người như Từ Nhụ Tử,
Kể về thơ như được tiếp ông họ Tạ ở Tuyên Thành.
Khóm mai bên bờ nở trắng như tuyết,
Trăm thứ cỏ tươi mọc nơi bùn.
Dám trái với lời hỏi của ông câu,
Theo đó bèn đi về miền nam.Bản dịch của Phạm Doanh
Hồ rộng thêm mây khói,
Lầu vắng ánh chiều tà.
Từ Nhụ Tử thêm lễ,
Tạ Tuyên Thành tiếp thơ.
Trăm cỏ lan bùn mới,
Khóm mai nở trắng bờ.
Dám trái lời ngư phụ,
Vùng nam cứ đi vô.
(Năm 769)
[1] Tức Từ Trĩ 徐稺 (hay 徐稚), hiệu Nhụ Tử, người Nam Xương, là một cao sĩ thời Đông Hán. Châm ngôn xử thế của ông là: "Cung kiệm nghĩa nhượng, đạm bạc minh chí" 恭儉義讓,淡泊明志 (Kính trọng, dè sẻn, giữ nghĩa, nhường nhịn, sống đơn giản để tỏ cái chí). Không dốc một lòng cầu làm quan, mà cố sức giúp người. Ông thường tới Giang Hạ để thăm viếng vị học giả trứ danh Hoàng Quỳnh 黄瓊 (86-164, tự Thế Anh 世英, Hương Tử 香子) và tôn ông này làm thày. Sau này khi Hoàng Quỳnh ra làm quan lớn, Từ Trĩ đoạn giao với thày, và còn nhiều lần từ chối lời khuyên của thày ra làm quan. Nghe tin Hoàng Quỳnh qua đời, Từ Trĩ từ Nam Xương đi tới Giang Hạ khóc tế.
[2] Tức Tạ Diễu 謝眺 (464-499) nhà thơ nước Tề thời Nam triều, từng giữ chức thái thú Tuyên Thành.