27/04/2024 12:11Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thị Xuân Lai đê hựu túc Phổ Lộng

Tác giả: Lê Quý Đôn - 黎貴惇

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 23/05/2012 18:31

 

Phiên âm

Nguyên điền hoạch tận hiện bình cao
Phong quyển chinh vân tịnh thuý bào
Nộn diệp thanh liên cam giá trưởng
Lão chi lục tủng cự dung cao
Đàm quang liễm diễm phân hoa kính
Giang lộ vu tà thúc cẩm thao
Phì trọc tự lai đa xuất phú
Trác, Nhâm[1] diệc thị nhất thì hào

Dịch nghĩa

Ruộng đồng gặt hái xong, hiện con đê phẳng
Gió cuốn mây đi làm sạch áo bào xanh
Cây mía lớn lên, lá xanh non mơn mởn
Cây đa to cao vút, cành già màu biếc xum xuê
Ánh đầm bát ngát, lộ rõ tấm gương hoa
Đường sông vòng vèo như sợi dây gấm thắt lại
Kiểu đất phì nộn phần nhiều xuất hiện những kẻ giàu có
Họ Trác, họ Nhâm cũng là hào kiệt một thời

Bản dịch của Đào Phương Bình

Đồng điền gặt hết, trơ đê phẳng
Gió cuốn mây đi, áo cũng thanh
Mía trải màu xanh, tươi mởn lá
Đa đua sắc biếc, vút cao cành
Ánh đầm bát ngát, gương hoa hiện
Đường thuỷ quanh co, dải gấm hình
Màu mỡ đất này nhiều phú hộ
Trác, Nhâm kia cũng bậc đàn anh
[1] Trác tức là Trác Mậu, người thời Đông Hán, làm quan lệnh đất Mật, thi hành giáo hoá rất tốt, được vua Quang Võ cất nhắc làm chức Thái phó (một chức quan cao cẫp). Nhâm tức Nhâm Diên, một viên thái thú hiền thời Đông Hán, sau được phái sang làm quan ở quận Giao Chỉ. Ở đây mượn họ Trác và họ Nhâm để nói địa phương mà tác giả đến là địa phương có chính trị tốt. Do đó mà dân làm ăn thịnh vượng giàu có. Thơ tỏ ý khen ngợi kẻ làm quan biết chăm lo đời sống cho dân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lê Quý Đôn » Thị Xuân Lai đê hựu túc Phổ Lộng