29/03/2024 11:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bính Dần xuân hữu hoài ca cơ Mộng Vị tính phụng chư thi hữu
丙寅春有懷歌姬夢味并奉諸詩友

Tác giả: Nguyễn Phúc Ưng Bình - 阮福膺苹

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi hảo liễu vào 26/12/2014 09:18

 

Nguyên tác

一自逢君更別君,
清歌枕裏夢來頻。
鴻書雁信當年事,
柳葉桃花兩度春。
無柰教坊終斂跡,
可憐詩社亦離群。
何當再鼓𤅷江棹,
脂粉人同筆墨人。

Phiên âm

Nhất tự phùng quân cánh biệt quân,
Thanh ca chẩm lý mộng lai tần.
Hồng thư nhạn tín đương niên sự,
Liễu diệp[1] đào hoa[2] lưỡng độ xuân.
Vô nại giáo phường[3] chung liễm tích,
Khả liên thi xã diệc ly quần.
Hà đương tái cổ Linh giang[4] trạo,
Chi phấn nhân đồng bút mặc nhân.

Dịch nghĩa

Vừa mới gặp nàng rồi lại chia tay
Tiếng ca cứ luôn vấn vương trong mộng
Thư từ đi lại là chuyện năm xưa
Đào liễu đã thay lá hai mùa rồi
Biết làm sao nhà hát đã tan
Buồn thay thi xã cũng chẳng còn
Sao lại không dạo thuyền thơ trên sông Gianh lần nữa
Để bạn má hồng lại gần kẻ mặc khách tao nhân

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Mới gặp nàng đây lại biệt nàng
Đàn ca trong mộng tiếng còn vang
Thư từ tình cũ hơi còn ấm
Đào liễu hai năm lá đẫm sương
Nhà hát tan rồi ngao ngán nỗi
Thi đàn tơi tả luống buồn thương
Sông Gianh sao chẳng dong buồm lại
Khua mái cùng ta bạn phấn hương
Lời tự: "Án sát Quảng Bình" 按察廣平 (Thơ làm trong thời kỳ làm án sát Quảng Bình).

Bính Dần tức năm 1926.

[1] Ý chỉ chia ly nhớ nhung. Lấy ý từ tên ca khúc "Dương liễu chi" 楊柳枝. Thời Nam Bắc Triều có khúc nhạc nhạc phủ tên là "Chiết dương liễu chi" 折楊柳枝 tả cảnh buồn bã, dùng dằng trong buổi chia tay:
Thướng mã bất thóc tiên,
Phản ảo dương liễu chi.
Há mã xuy hoành địch,
Sầu sát hành khách nhân.
上馬不捉鞭,
反拗楊柳枝。
下馬吹橫笛,
愁殺行客人。
Lên yên cương chẳng cầm dây
Vin tay uốn gãy cành cây liễu buồn
Dùng dằng cầm sáo xuống yên
Véo von tiễn biệt héo hon lòng người
Liễu Chi cũng là tên một ca nhi nổi tiếng, xem bài "Liễu Chi" của Lý Thương Ẩn. Liễu chi cũng là cành cây liễu rủ. Do vậy sau này các thi nhân thường dùng "Liễu chi" để tả cảnh, nhìn phong cảnh đẹp, có liễu rũ xanh màu mà nhớ nhung người đẹp, hoặc tả cảnh chia tay bịn rịn, nhìn cảnh nhớ người,... Xem bài từ "Hạnh hoa thiên ảnh" 杏花天影 của Khương Quỳ 姜夔 đời Tống.
[2] Ý chỉ chia ly nhớ nhung, lấy ý từ "Đào diệp" 桃葉. Đào Diệp cũng là tên ái thiếp của Vương Hiến Chi 王獻之, một nhà thư pháp danh tiếng đời Đông Tấn 東晉. Vương Hiến Chi rất yêu thích Đào Diệp, từng làm bài từ để hát khi tiễn biệt nàng Đào Diệp chèo thuyền qua sông:
Đào Diệp phục Đào Diệp,
Độ giang bất dụng tiếp,
Đãn độ vô sở khổ,
Ngã tự lai nghinh tiếp.
桃葉復桃葉,
渡江不用楫。
但渡無所苦,
我自來迎接。
Đào Diệp hỡi Đào Diệp,
Nàng sang sông khỏi cần chèo,
Khỏi lo sợ gì,
Ta sẽ đến đón nàng.
Bài này được người đời sau phổ nhạc thành khúc nhạc loại nhạc phủ tên là "Đào Diệp ca" 桃葉歌. Sau này các thi nhân thường dùng Đào để tả cảnh chia tay bịn rịn, nhìn cảnh nhớ người,... Xem bài từ "Hạnh hoa thiên ảnh" 杏花天影 của Khương Quỳ 姜夔 đời Tống.
[3] Nơi học tập đàn ca của ca nhi. Ở đây chỉ nơi hát ca trù. "Tỳ bà hành" 琵琶行 của Bạch Cư Dị 白居易 có đoạn:
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô Lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi thường giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu nương đố.
自言本是京城女,
家在蝦謨陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷常教善才服,
粧成每被秋娘妒。
Kể rằng xưa ở kinh thành,
Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất tiếng đà đồn xa.
Thiện tài phục ngón tỳ bà,
Thu Nương tấm tức khi đà giồi trau.
(Trần Trọng Kim dịch)

[4] Sông Gianh ở tỉnh Quảng Bình.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Phúc Ưng Bình » Bính Dần xuân hữu hoài ca cơ Mộng Vị tính phụng chư thi hữu