11/05/2024 08:20Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tống Cao tam thập ngũ thư ký
送高三十五書記

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/01/2015 18:11

 

Nguyên tác

崆峒小麥熟,
且願休王師。
請公問主將,
焉用窮荒為。
饑鷹未飽肉,
側翅隨人飛。
高生跨鞍馬,
有似幽並兒。
脫身簿尉中,
始與捶楚辭。
借問今何官,
觸熱向武威。
答雲一書記,
所愧國士知。
人實不易知,
更須慎其儀。
十年出幕府,
自可持旌麾。
此行既特達,
足以慰所思。
男兒功名遂,
亦在老大時。
常恨結歡淺,
各在天一涯。
又如參與商,
慘慘中腸悲。
驚風吹鴻鵠,
不得相追隨。
黃塵翳沙漠,
念子何當歸。
邊城有餘力,
早寄從軍詩。

Phiên âm

Không Động tiểu mạch thục,
Thả nguyện hưu vương sư.
Thỉnh công vấn chủ tướng,
Yên dụng cùng hoang vi?
Cơ ưng vị bão nhục,
Trắc sí tuỳ nhân phi.
Cao sinh khoá yên mã.
Hữu tự U, Tinh[1] nhi.
Thoát thân bộ uý trung,
Thuỷ dữ chuý sở tì (từ).
Tá vấn kim hà quan,
Xúc nhiệt hướng Vũ Uy[2].
Đáp vân nhất thư ký,
Sở quý, quốc sĩ tri.
Nhân thực bất dịch trí,
Cánh tu thận kỳ nghi.
Thập niên xuất mạc phủ.
Tự khả trì tinh huy.
Thử hành ký đặc đạt,
Túc dĩ uỷ sở ti (tư).
Nam nhi công danh toại,
Diệc tại lão đại thì.
Thường hận kết hoan thiển,
Các tại thiên nhất nhai.
Hựu như Sâm dữ Thương,
Thảm thảm trung trường bi.
Kinh phong xuy hồng hộc,
Bất đắc tương truy tuỳ.
Hoàng trần ế sa mạc,
Niệm tử hà đương quy.
Biên thành hữu dư lực,
Tảo ký tòng quân thi.

Dịch nghĩa

Nơi Không Động lúa tẻ chín,
Xin nguyện cho lính vua nghỉ.
Xin ông hỏi cấp trên mình,
Vùng hoang đó dùng để làm gì?
Chim ưng đói chưa no thịt,
Nghiêng cánh bay dòm người.
Anh Cao giỏi cưỡi ngựa,
Giống như chàng trai vùng U Châu, Tinh Châu.
Mang thân giữ chức uý nhỏ nhoi,
Mới đầu vì phạm lỗi bị phạt roi rồi cho về.
Thử hỏi ông quan nào bây giờ,
Dám chạm nóng đến vùng Vũ Uy hay không?
Xin đáp rằng có một viên thư ký,
Cái điều thẹn của ông, các bậc tài của nước biết đến.
Lòng thành thực của người đời thực không dễ hiểu,
Nên cần thận trọng trong lối xử sự của mình.
Mười năm ra trấn nhậm vùng tỉnh,
Tự mình có thể nắm vững cờ.
Công tác này đã đạt tới kết quả tốt,
Đủ để làm yên vững lòng ông.
Thân trai khi công danh đã hoàn mãn,
Thì lúc đó đã già.
Thường tiếc rằng tình thân chưa thắm thiết,
Vì mỗi người một phương trời.
Hệt như hai sao Sâm với sao Thương,
Trong bụng buồn nao nao.
Gió dữ thổi chim hồng chim hạo,
Tôi không thể cùng đi theo được.
Bụi vàng mù nơi sa mạc,
Đang lúc này đây nghĩ tới bác.
Nơi cạnh thành còn chút sức,
Sớm gửi bài thơ quân lên đường.

Bản dịch của Phạm Doanh

Không Động lúa tẻ chín,
Xin cho quân vua về.
Xin ông hỏi chủ tướng,
Vùng biên hoang làm gì?
Ưng đói chưa no thịt,
Nghiêng cánh dõi người đi.
Anh Cao giỏi cỡi ngựa,
Trai U, Tinh khác chi.
Thân mang chức uý nhỏ,
Đánh đuổi vì phạm qui.
Quan nào nay thử hỏi,
Dám tới chốn Vũ Uy?
Đáp rằng: viên thứ ký,
Điều thẹn, người nể vì.
Người thật khó mà biết,
Nên cẩn thận giữ nghì.
Mười năm đóng ngoài trấn,
Vẫn tự giương được cờ.
Lần này thành đạt tốt,
Đủ an uỷ tâm tư.
Vào lúc thân già khụ,
Mới đạt chí nam nhi.
Mỗi người riêng một góc,
Cùng vui chẳng nhiều gì.
Giống như sao sớm, tối,
Rầu rĩ lòng sầu bi.
Gió lốc cuốn hồng hạo,
Chẳng thể cùng truy tuỳ.
Bụi vàng lấp sa mạc,
Tới anh chợt nghĩ suy.
Bên thành còn dư sức,
Gửi vội bài quân đi.
(Năm 752)

[1] U Châu và Tinh Châu, những vùng quan trọng cho an ninh Trung Quốc thời xưa, dân tình ưa thói du hiệp, có nhiều chàng trai dũng cảm, nghĩa khí.
[2] Huyện thuộc Cam Túc, trên đường đi sang Tân Cương.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tống Cao tam thập ngũ thư ký