25/04/2024 05:11Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ký Trương thập nhị sơn nhân Bưu tam thập vận
寄張十二山人彪三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/03/2015 12:53

 

Nguyên tác

獨臥嵩陽客,
三違潁水春。
艱難隨老母,
慘澹向時人。
謝氏尋山屐,
陶公漉酒巾。
群凶彌宇宙,
此物在風塵。
歷下辭姜被,
關西得孟鄰。
早通交契密,
晚接道流新。
靜者心多妙,
先生藝絕倫。
草書何太苦,
詩興不無神。
曹植休前輩,
張芝更後身。
數篇吟可老,
一字買堪貧。
將恐曾防寇,
深潛托所親。
甯聞倚門夕,
盡力潔飧晨。
疏懶為名誤,
驅馳喪我真。
索居猶寂寞,
相遇益悲辛。
流轉依邊徼,
逢迎念席珍。
時來故舊少,
亂後別離頻。
世祖修高廟,
文公賞從臣。
商山猶入楚,
湍水不離秦。
存想青龍秘,
騎行白鹿馴。
耕岩非穀口,
結草即河濱。
肘後符應驗,
囊中藥未陳。
旅懷殊不愜,
良覿渺無因。
自古皆悲恨,
浮生有屈伸。
此邦今尚武,
何處且依仁。
鼓角淩天籟,
關山信月輪。
官壕羅錦磧,
賊火近洮岷。
蕭索論功地,
蒼茫鬥將辰。
大軍多處所,
餘孽尚紛綸。
高興知籠鳥,
斯文豈獲麟。
窮秋正搖落,
回首望湘筠。

Phiên âm

Độc ngoạ Tung Dương khách,
Tam vi Dĩnh thuỷ[1] xuân.
Gian nan tuỳ lão mẫu,
Thảm đạm hướng thì nhân.
Tạ thị[2] tầm sơn kịch,
Đào công[3] lộc tửu cân.
Quần hung di vũ trụ,
Thử vật tại phong trần.
Lịch Hạ[4] từ Khương[5] bí,
Quan Tây đắc Mạnh[6] lân.
Tảo thông giao khế mật,
Vãn tiếp đạo lưu tân.
Tĩnh giả tâm đa diệu,
Tiên sinh nghệ tuyệt luân.
Thảo thư hà thái khổ,
Thi hứng bất vô thần.
Tào Thực[7] hưu tiền bối,
Trương Chi[8] cánh hậu thân.
Sổ thiên ngâm khả lão,
Nhất tự mãi kham bần.
Tương khủng tăng phòng khấu,
Thâm tiềm thác sở thân.
Ninh văn ỷ môn tịch,
Tận lực khiết sôn thần.
Sơ lãn vi danh ngộ,
Khu trì táng ngã chân.
Sách cư do tịch mịch,
Tương ngộ ích bi tân.
Lưu chuyển y biên kiếu,
Phùng nghênh niệm tịch trân.
Thì lai cố cựu thiếu,
Loạn hậu biệt ly tần.
Thế Tổ tu Cao Miếu[9],
Văn công[10] thưởng tòng thần.
Thương sơn do nhập Sở,
Thoan thuỷ bất ly Tần.
Tồn tưởng thanh long bí,
Kỵ hành bạch lộc tuần.
Canh nham phi cốc khẩu,
Kết thảo tức hà tân.
Trửu hậu phù ứng nghiệm,
Nang trung dược vị trần.
Lữ hoài thù bất thiếp,
Lương địch miểu vô nhân.
Tự cổ giai bi hận,
Phù sinh hữu khuất thân.
Thử bang kim thượng vũ,
Hà xứ thả y nhân.
Cổ giác lăng thiên lãi,
Quan sơn tín nguyệt luân.
Quan hào la Cẩm thích,
Tặc hoả cận Thao Mân.
Tiêu tác luận công địa,
Thương mang đấu tướng thần.
Đại quân đa xứ sở,
Dư nghiệt thượng phân luân.
Cao hứng tri lung điểu,
Tư văn khởi hoạch lân.
Cùng thu chính dao lạc,
Hồi thủ vọng Tương quân.

Dịch nghĩa

Là người khách cô đơn ở ẩn nơi phía bắc núi Tung,
Đã rời quê của ông từ vùng sông Dĩnh ba năm rồi.
Gian nan theo bà mẹ già,
Buồn thảm hướng về người đương thời.
Theo đôi guốc của họ Tạ, đi trong núi,
Có được cái khăn lọc rượu của ông Đào.
Bọn dữ còn đầy trong trời đất,
Các vật này lăn lóc trong gió bụi.
Nơi Lịch Hạ từ bỏ cái mền của họ Khương,
Nơi Quan Tây chọn được hàng xóm như bà mẹ của ông Mạnh.
Sớm kết bạn thân thiết,
Cuối đời mới đem lòng mộ đạo.
Con người ưa tĩnh mịch tất lòng thâm trầm,
Nghệ thuật của ông thật đến mức cao.
Lối viết thảo sao mà dụng công đến thế,
Hứng về thơ không phải là không có thần.
Vượt lên trên cả người xưa như Tào Thực,
Ông đúng là hậu thân của Trương Chi.
Một vài bài thơ có thể ngâm tới già được,
Một chữ bán ra cam chịu cảnh nghèo túng.
Những sợ từng né cướp,
Tầm ngầm nuôi dưỡng người thân.
Chiều tựa cửa mong nghe,
Sớm bữa ăn thanh đạm sửa soạn.
Phóng khoáng và lầm lỡ với công danh,
Lặn lội khiến mất cả bản tính mình.
Ở nơi hẻo lánh vốn vắng vẻ,
Gặp gỡ nhau càng thêm đau buồn.
Tôi di chuyển cứ quanh vùng biên giới tây nam,
Đón tiếp nhớ lại cái chiếu quí.
Tới giờ những người quen biết càng ít đi,
Sau khi loạn cứ thường phải chia ly.
Hán Thế Tổ sửa sang lại Cao Miếu,
Văn công được mời ra làm quan.
Núi thu còn vào vùng Sở,
Dòng chảy xiết không có rời đất Tần.
Vẫn tưởng bên trái còn bí ẩn của rồng xanh,
Cưỡi đi bên mặt thì yên vì hươu trắng đã thuần.
Cày ruộng nơi núi chẳng phải là cửa hang,
Kết nóc tranh ngay bên bờ nước.
Bùa ngay cạnh tay luôn được coi đến,
Thuốc trong túi chưa được moi ra.
Nơi xa mà nhớ sao không dứt,
Tới gặp mặt thì mịt mù không cớ.
Từ xưa đều buồn giận,
Cuộc đời trôi nổi có lúc co lúc duỗi.
Nước này nay chuộng vũ lực,
Có nơi nào dựa vào lòng nhân đâu.
Tiếng trống và tù và át cả tiếng sáo trời,
Núi nơi cửa ải trăng tròn cứ đúng độ.
Hào quân nhà nước đầy nơi sa mạc vùng Cẩm.
Lửa giặc gần nơi Thao và vùng Mân.
Tan tác nơi bàn về công lao,
Ngày của tướng nơi trận hoảng hốt.
Đoàn quân lớn đóng nhiều nơi,
Tàn dư giặc còn lẩn quất.
Cao hứng biết được con chim trong lồng,
Nhà nho há bắt được lân.
Mùa thu cùng cực này là lúc vất vả,
Quay đầu ngóng đám trúc nơi sông Tương.

Bản dịch của Phạm Doanh

Nơi Tương Dương một thân làm khách,
Ba lần Dĩnh thuỷ cách xuân qua.
Gian nan phụng dưỡng mẹ già,
Bạn cùng thời những ngẩn ngơ trông chờ.
Guốc ông Tạ đem ra leo núi,
Lọc rượu thì cần tới khăn Đào.
Bọn dữ trong nước biết bao,
Vật này gió bụi lao xao bám đầy.
Nơi Lịch Hạ bỏ bầy quấn quít,
Tới Quan Tây cạnh đất Mạnh kia
Sớm cùng thân thiết lại qua
Cuối đời, bạn mới hoá ra còn hoài.
Lòng dạ bác đúng người trầm lặng,
Ở trên đời thượng thặng nghề văn.
Công viết thảo biết bao ngần,
Hứng thơ cứ tưởng như thần giúp cho.
Vượt tiền bối bỏ qua Tào Thực,
Hồn Trương Chi như được tái sinh
Vài chương ngâm đủ thấy tình,
Một chữ đem bán cam mình nghèo xơ.
Từng sợ hãi phải lo phòng giặc,
Ẩn cho sâu chăm sóc người thân.
Sao chiều tựa cửa nghe gần,
Sớm lo tươm tất bữa ăn cho người.
Với công danh tính lười sẵn có
Lặn lội chi phải bỏ tính trời.
Buồn sao cảnh sống lẻ loi,
Gặp nhau càng thấy cảnh đời thêm thương.
Vùng biên giới cứ thường di chuyển,
Trên chiếu sang nhớ đón người hiền.
Nay ít hẳn kẻ từng quen,
Sau thời loạn lạc nhiều phen chia lìa.
Vua Thế Tổ sửa bia Cao miếu,
Mời Văn ông lo liệu việc quan.
Còn nơi vùng Sở, Thương Sơn,
Sông Thoan cũng chẳng xa Tần mảy may
Trái rồng xanh, tưởng đầy bí ẩn,
Phải hổ trắng, cứ vẫn quen đường.
Cày núi nào được miệng hang,
Kết nóc phải ở bờ sông vật vờ.
Nơi cùi tay còn bùa ứng dụng,
Thuốc trong túi còn đựng chưa bày.
Nỗi nhớ nhà nào dứt ngay,
Chẳng hề có được dịp may tới mình.
Suốt từ xưa rành rành buồn tủi,
Cuộc sống này lúc duỗi, khi co.
Nước này quen thói vũ phu,
Nơi nào là chốn trông nhờ tình thương.
Át tiếng trời, ầm vang ốc, trống,
Nơi biên cương vẫn bóng trăng xưa.
Hào quan vùng Cẩm đào bừa,
Thao Mân lửa giặc gần vừa ngay bên.
Nơi làm việc trở nên lộn xộn,
Quan tướng khi lâm trận hoảng hồn.
Khắp nơi đều có rải quân,
Dư đảng bọn giặc vẫn còn lao xao.
Phận chim lồng hứng cao mới thấy,
Thời thế này liệu bẫy được lân.
Cuối thu đang lúc đau buồn,
Trúc Tương quay cổ tần ngần đứng trông.
(Năm 759)

Trương Bưu là con cô con cậu với Mạnh Vân Khanh, có đi thi nhưng không đạt.

[1] Sông khởi từ hang Dĩnh, huyện Đăng Phong, Hà Nam, chảy về phía đông nam xuống tỉnh An Huy rồi đổ vào sông Hoài Hà.
[2] Tạ Linh Vận (385-433), nhà văn học nước Tống thời Nam triều, là cháu của Tạ Huyền 謝玄.
[3] Đào Tiềm (365-427), người đời Đông Tấn, tính người chịu ở cảnh nghèo vui với đạo. Thơ văn ông trác tuyệt, sau vì cảm thấy bực dọc nơi quan trường bèn bỏ chức lệnh nơi huyện mà về ở ẩn.
[4] Thuộc Lịch Thành, Sơn Đông.
[5] Khương Hoằng. Chuyện chép trong Hậu Hán thư, dùng chỉ tình anh em tương thân.
[6] Mạnh Kha, tức Mạnh Tử, người xiển dương học thuyết của Khổng Khâu, được coi là á thánh trong nho học. Mẹ ông rất nghiêm túc dạy dỗ con, xa lánh hàng xóm xấu, đã phải ba lần đổi chỗ ở, nên có câu “Mạnh mẫu tam thiên” 孟母三遷 (Bà mẹ họ Mạnh ba lần dời chỗ ở).
[7] Thi nhân thời Tam Quốc, tự Tử Kiến, là con của Tào Tháo, mười tuổi biết làm thơ, có trí thông minh, được mến chuộng. Như Tạ Linh Vận 謝靈運 từng nói tài trong thiên hạ có một thăng, thì Tử Kiến một mình đã chiếm tám đấu.
[8] Tự Bá Anh 伯英, người Đôn Hoàng, Tửu Tuyền (Cam Túc). Giỏi về lối viết thảo, tạo ra lối kim thảo giản lược. Vương Hy Chi 王羲之 và Vương Hiến Chi 王獻之 chịu ảnh hưởng lối viết thảo của ông.
[9] Nhà Hậu Hán sau thời Vương Mãng, vua Hán Quang Đế năm Kiến Vụ thứ 2 lập Cao Miếu ở Lạc Dương thờ Lưu Bang (Hán Cao Đế) gọi là Thái Tổ, Hán Văn Đế Lưu Hằng là Thái Tông, Vũ Đế là Thế Tông.
[10] Hay Văn ông 文翁, người thời Tây Hán, tính hiếu học, cuối đời vua Cảnh Đế coi Thục quận, lập trường học, xiển lễ nghi, văn hoá vùng Thục phát triển mạnh.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Ký Trương thập nhị sơn nhân Bưu tam thập vận