26/04/2024 19:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Truy thù cố Cao Thục châu nhân nhật kiến ký
追酬故高蜀州人日見寄

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 15/03/2014 16:03

 

Nguyên tác

自蒙蜀州人日作,
不意清詩久零落。
今晨散帙眼忽開,
迸淚幽吟事如昨。
嗚呼壯士多慷慨,
合沓高名動寥廓。
歎我悽悽求友篇,
感時鬱鬱匡君略。
錦里春光空爛熳,
瑤墀侍臣巳冥莫。
瀟湘水國傍黿鼉,
鄠杜秋天失鵰鶚。
東西南北更誰論,
白首扁舟病獨存。
遙拱北辰纏寇盜,
欲傾東海洗乾坤。
邊塞西蕃最充斥,
衣冠南渡多崩奔。
鼓瑟至今悲帝子,
曳裾何處覓王門。
文章曹植波瀾闊,
服食劉安德業尊。
長笛誰能亂愁思,
昭州詞翰與招魂。

Phiên âm

Tự mông Thục châu “Nhân nhật[1]” tác,
Bất ý thanh thi cửu linh lạc.
Kim thần tán dật nhãn hốt khai,
Bính lệ u ngâm sự như tạc.
Ô hô tráng sĩ[2] đa khảng khái,
Hợp đạp cao danh động liêu khoác.
Thán ngã thê thê cầu hữu thiên,
Cảm thì uất uất khuông quân lược.
Cẩm lý[3] xuân quang không lạn mạn,
Dao trì thị thần tỵ minh mạc.
Tiêu Tương thuỷ quốc bàng ngoan đà[4],
Hộ[5], Đỗ[6] thu thiên thất điêu ngạc[7].
Đông tây nam bắc[8] cánh thuỳ luận,
Bạch thủ biển chu bệnh độc tồn.
Dao củng bắc thần[9] triền khấu đạo,
Dục khuynh đông hải tẩy càn khôn.
Biên tái tây Phồn tối sung xích,
Y quan nam độ[10] đa băng bôn.
Cổ sắt chí kim bi đế tử,
Duệ cứ hà xứ mịch vương môn.
Văn chương Tào Thực ba lan khoát,
Phục thực Lưu An[11] đức nghiệp tôn.
Trường địch[12] thuỳ năng loạn sầu tứ,
Chiêu Châu từ hàn dữ “Chiêu hồn”.

Dịch nghĩa

Từ khi đọc bài “Nhân nhật” từ Thục Châu gửi đến,
Vô tình bài thơ hay đến như thế mà bị sao lãng từ lâu.
Sáng nay coi lại trong đống sách, mắt mới nhận ra nó,
Đọc nhẩm mà mắt mờ lệ, tưởng như việc mới sảy ra hôm qua.
Than ôi, người tráng sĩ sao mà khảng khái đến như thế,
Danh thơm vang dậy khắp đất nước.
Đã thương ta mà gửi thơ cho người bạn,
Tôi thì phục bác lẫy lừng đem tài ra giúp nước.
Nơi làng Cẩm mầu sắc mùa xuân vẫn tốt tươi như thường,
Nơi thềm ngọc, quan thường thị nay đã mất rồi.
Nơi vùng hai sông Tiêu và Tương các loại cá hèn đang quanh quẩn,
Và trời thu nơi huyện Hộ và Đỗ Khúc đã vắng bóng chim ưng chim cắt.
Đông tây nam bắc, khắp chốn giờ đây biết nói cùng ai,
Giờ đây đầu bạc, trên chiếc thuyền nhỏ, mà bệnh tật vẫn còn.
Nhìn xa về hướng sao bắc, có hiện tượng giặc giã,
Muốn nghiêng biển đông lấy nước tưới đất trời.
Ngoài biên ải phía tây, giặc Phiên đang tấn công mạnh,
Và bến phía nam các quan lớn tháo chạy dài dài.
Tới nay con cháu vua đâu còn mà gảy đàn thương tiếc vua cha nữa,
Nơi cửa vua, có chỗ nào thấy bóng áo văn nhân không?
Văn chương mà đạt tới trình độ như Tào Thực rất là khó,
Và về tu luyện thuốc thang, như Lưu An thì đức độ nên noi theo.
Tiếng sáo nhà hàng xóm làm rối lòng buồn của mình,
Nhờ người ở Chiêu Châu làm hộ bài văn để chiêu hồn.

Bản dịch của Nhượng Tống

Thục châu từ đọc bài "Nhân nhật"
Bấy chốc thơ hay bỏ lay lắt
Sớm nay đám giấy mắt mở chơi
Nhớ cũ lệ sa, tiếng ngâm cất
Than ôi, tráng sĩ thường hăng hái
Danh cao để lại lừng trời đất
Thương ta gửi bạn thơ thiết tha
Cảm bác cứu đời lòng phẫn uất
Sông Gấm màu xuân vẫn sáng tươi
Đền ngọc quan hầu đà vắng bặt
Tiêu Tương mặt nước cá mú nhờn
Vu Đỗ trời thu ưng, cắt mất
Đông tây năm bắc chiếc thuyền con
Già yếu mình ta sống sót còn
Kinh Bắc trông vời đầy giặc cướp
Bể Đông muốn dốc rửa càn khôn
Qua miền nam thấy quan quân chạy
Ngoài ải tây xem Mán mọi dồn
Con chúa tới nay đàn gảy thảm
Cửa vua nào chỗ áo lê mòn?
Văn chương Tào Thực tài khôn đọ
Tu luyện Lưu An đức đáng tôn
Nghe sáo lòng buồn thêm vướng vít
Chiêu Châu làm hộ khúc "Chiêu hồn"
(Năm 770)

Lời tự: “Khai văn thư dật trung, kiểm sở di vong, nhân đắc cố Cao thường thị Thích. Vãng cư tại Thành Đô thì, Cao nhậm Thục châu thứ sử Nhân nhật tương ức kiến ký thi, lệ sái hàng gian, độc chung thiên mạt, tự uổng thi dĩ thập dư niên, mạc ký tồn một hựu lục thất niên hĩ, lão bệnh hoài cựu, sinh ý khả tri. Kim hải nội vong hình cố nhân, độc Hán Trung Vương Vũ dữ Chiêu Châu kính sứ quân Siêu Tiên tại. Ái nhi bất kiến, tình kiến hồ từ. Đại Lịch ngũ niên chính nguyệt nhị thập nhất nhật, khước truy thù Cao công thử tác, nhân ký Vương cập Kính đệ.” 開文書帙中,檢所遺忘,因得故高常侍適。往居在成都時,高任蜀州刺史人日相憶見寄詩,淚灑行間,讀終篇末,自枉詩已十餘年,莫記存歿又六七年矣,老病懷舊,生意可知。今海內忘形故人,獨漢中王瑀與昭州敬使君超先在,愛而不見,情見乎辭。大曆五年正月二十一日,卻追酬高公此作,因寄王及敬弟。 (Mở coi trong cặp giấy, soát những món sót lại được bài thơ Nhớ nhau trong tiết nhân nhật của quan thường thị Cao Thích ngày trước, gửi cho khi ở Thành Đô hồi ấy Cao làm thứ sử Thục châu. Đọc trọn bài thơ lệ sa đầy giấy. Từ khi gửi thơ đã hơn mười năm. Không nhớ còn mất, lại sáu bảy năm rồi. Già ốm nhớ cũ, đủ rõ đời sống thế nào. Nay trong bốn bể, kể bạn quên hình hài, chỉ còn Vương Vũ ở Hán Trung và kính sứ quân Siêu Tiên ở Chiêu Châu còn sống. Yêu mà không gặp, tình hiện ra lời. Ngày 21 tháng giêng năm Đại Lịch thứ 5, đáp theo bài ấy của ông Cao, nhân gửi Vương cùng em Kính.)

[1] Ngày 7 tháng Giêng.
[2] Cao Thích.
[3] Thành Đô, Tứ Xuyên.
[5] Huyện tại tây nam Tây An, Thiểm Tây.
[6] Đỗ Khúc.
[4] Đỗ Phủ chỉ thân phận của mình.
[7] Kẻ anh hùng, chỉ Cao Thích.
[8] Trong bài thơ Cao Thích viết gửi có “Quý nhĩ đông tây nam bắc nhân”.
[9] Chỉ Trường An, nơi vua ở.
[10] Thổ Phồn đang gây loạn.
[11] Người huyện Bái thời Tây Hán, là cháu của Hán Cao Tổ. Hưởng theo công cha nên được phong là Hoài Nam Vương. Rất giỏi văn từ, được Hán Vũ Đế quý trọng. Đã cùng các tân khách, phương sĩ hợp soạn ra Hoài Nam tử 淮南子 nội thiên gồm 21 chương, ngoại thiên 33 chương. Nay chỉ còn truyền nội thiên. Sau vì có tham gia vào vụ phản biến, việc vỡ lở, ông tự ải mà chết. Hai nhân vật này Đỗ Phủ dùng để gợi lên hình ảnh Hán Trung Vương Lý Vũ.
[12] Hướng Tú đời Tấn nghe tiếng sáo mà nhớ lại người bạn thân là Kê Khang, nên làm ra bài phú nhớ người xưa.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Truy thù cố Cao Thục châu nhân nhật kiến ký