03/10/2024 18:27Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 31/05/2014 13:01
Trương Lưu Hầu!
Trương Lưu Hầu!
Ngao cực[1] gây thiêng;
Hồ tinh[2] giấu sáng.
Vằng vặc my thanh mục tú[3], kỳ sĩ phong tư[4];
Nhơn nhơn thức viễn tài cao[5], danh nho khí tượng[6].
Y bát[7] theo một mối cầm thư[8];
Chung đỉnh[9] dõi năm đời khanh tướng.
Trời đất thuở cát vàng, bụi tía[10], áng công danh không uốn lưỡi Nghi, Tần[11];
Nước nhà khi bể biếc, dâu xanh[12], mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng[13].
Rải nghìn vàng tìm khách thiếu niên;
Nâng chiếc dép tôn người lão trượng[14].
Bác Lãng[15] một chuỳ tiết nghĩa, trật vẩy Tổ Long[16];
Trần Lưu[17] ba quyển lược thao, mở lòng đình trưởng[18].
Ngôi quân sư này chốn phúc tâm[19];
Việc trù sách vận trong duy trướng[20].
Bóng cờ phất thập thò trên đỉnh Quỹ[21], sơn hà trăm hai lẻ[22], một khắc hoá tan tành;
Tiếng tiêu đưa rủ rỉ chốn thành Cai[23], tử đệ tám nghìn dư, nửa đêm xuôi khảng tảng.
Việc năm năm[24] đưa tấc lưỡi còn thừa;
Cơ nghìn dặm quyết trong màn một nhoáng.
Cung Tần rót một liều thuốc đắng[25], bệnh phú ông[26] tỉnh lại lúc tê mê;
Cửa Hồng[27] khuyên ba chén rượu nồng, hồn quý phụ[28] xiêu về cơn chếnh choáng.
Cho dượng Phàn[29] giương mắt tại quân trung;
Dìu ông Bái[30] rảo chân về Bá Thượng[31].
Áo gấm[32] ví von xui miệng trẻ, giục trùng đồng[33] xót dạ lại cồn cồn;
Chén châu[34] giả mẽ ghẹo gan già[35], làm ngu lão[36] tức mình gieo choảng choảng.
Bao quận[37] tiễn đưa xe ngựa Hán, dập dìu xui đốt nẻo về đông[38];
Huỳnh Dương[39] lẩn quẩn nước non Hàn, rong ruổi rắp gây nền thụ đảng[40].
Đổ mồ hôi nghe lời khách[41] vừa xong;
Sa nước mắt nghĩ việc nhà lai láng.
Chí ngùi ngùi khôn chiếm[42] cõi trung nguyên;
Lòng ngài ngại phải chăng miền tây hướng[43].
Ý nhiệm bán gươm ba thứ[44], lòng quốc sĩ[45] như soi;
Mưu sâu vạch đũa tám điều, mặt thụ nho[46] mới hoảng.
Việc quyên Quan[47] chia Tín, Bố đương quyền;
Chước hoãn chiến[48] máy Tề, Lương phản trạng[49].
Gương trung nghĩa treo tranh Tề Cảnh[50], Kỷ tướng quân[51] khi gấp khúc phải liều;
Máy hiểm thâm đánh mái sơn cương, Phàn tráng sĩ[52] lúc nguy nghi phải gượng.
Bài gián Sở giục chàng Nhụ Tử[53], tuốt xương, bẻ cánh, chước càng ghê;
Việc vương Tề[54] chiều kẻ vương tôn, bấm gót, rỉ tai[55], lời phải khoảng.
Lừa Vũ[56] đưa một bức khiêm cung;
Ngăn Sở giục ba người cưu tráng[57].
Hồng Câu[58] thuở chia sông một dải, nuôi hùm vào lỏng máy tiêm cừu[59];
Cố Lăng[60] khi cắt đất hai phần, đuổi khỉ[61] những êm bài ngự tướng[62].
Ngắm thiên văn[63] hay phá Sở cơ màu;
Xem địa lý biết hưng Lưu[64] khí vượng.
Đứa điền phu[65] trỏ vời miền Trạch Tả[66], ai hay chăng ấy chước cao thâm;
Thuyền trưởng ông[67] dòng đợi bến Ô Giang, ai biết chẳng là mưu liệu lượng.
Lũ trăm tham nào đọ sức kinh luân;
Trong tam kiệt dễ so công chiến xướng.
Phấp phới lá cờ trước gió, huân lao sá kể thứ Phàn, Đằng;
Vẫy vùng cán việt lên đàn, công tích không so phường Giáng, Quán.
Đế sư cao một bậc, trọng đức tôn danh;
Hầu tước hậu ba muôn, luận công hành thưởng.
Đường báo quốc nhờ lưng Xích Đế, tiệc Nam Cung đà vẹn tiếng vin rồng;
Chước bảo thân mượn dấu Hoàng Công, miền Bắc Thành tìm nơi ấp phượng.
Giá đã cao, nên đủng đỉnh công hầu;
Mình được nhẹ, nên tiêu dao ngày tháng.
Rỡ rỡ thư son khoán sắt, lời nãi ông dù trỏ núi thề sông;
Thênh thênh non đá am thông, thuyền tiên tử đã quen mây mến ráng.
Trót phải duyên cùng họ Hán mà theo;
Nên làm dấu lấy chữ Lưu kẻo đãng.
Đạo ấy, sá bàn chân với nguỵ, đấng cao minh chi vướng sự hữu vô;
Lòng này, ai biết Hán hay Hàn, phải biện bạch kẻo thẹn cùng phủ ngưỡng.
Trần hiêu chẳng bận ấy thần tiên;
Thanh tĩnh góp dần nên đạo dưỡng.
Ngao ngán chè thông, rượu cúc, lọ chắt chiu hồ ngọc đầy vơi;
Thảnh thơi quạt gió, đèn trăng, mảy hiu hắt đan sa nấu nướng.
Bầu tiên, chén thánh mặc khề khà;
Khoá lợi, giàm danh nào dính dáng.
Tưởng lại lúc hươu lồng, khỉ tắm, đã trống Hàm Quan, lại chuỳ Cửu Lý, giận anh hùng từ đấy sạch lâng lâng;
Trông về khi trâu mỏi, ngựa già, kìa xe Vân Mộng, nọ án Thượng Lâm, lòng du tử ngẫm thay cười sang sảng.
Hà, Tham vị thứ: bọt nước lênh đênh;
Tín, Việt công danh: áng mây thấp thoáng.
Thua được thừa điều Hán, Sở, túi Xích Tùng đủng đỉnh mái thanh sơn;
Nhục vinh gác chuyện Tiêu, Hàn, buồm Phạm Lãi nghênh ngang dòng bích lãng.
Ở giang hồ thì danh sĩ phong lưu;
Vào lăng miếu lại đại thần thể dạng.
Nghe văng vẳng chốn sa trung rục rịch, bảng lảng lừa then, rút máy, giải chúng tâm nâng một kẻ oán thù;
Thấy hiu hiu khi quốc bản lung lay, khoan thai chắp cánh, kên lông, yên trừ vị vẫy bốn người dật khoáng.
Hay dùng nào hết chước huyền vi;
Khó giấu dễ hao cơ bí tạng.
Đi lại tha hương, cố quốc, lưới anh hùng khôn dò chốn thiển thâm;
Ra vào đế tử, tiên ông, lồng trí thuật dễ ngự trong lai vãng.
Nghĩa thuỷ chung biện bạch cũng êm;
Đường tiến thoái thong dong chẳng vướng.
Một lần mộng dọc ngang trong tám cõi, đủ phê pha công Hán, nợ Hàn;
Ba tấc lưỡi đưa đẩy ngoại năm năm, vừa trọn vẹn thù Tần oán Hạng.
Ngẫm từ trên Trọng Liên, Phạm Lãi nào hơn;
So xuống dưới dẫu Lý Tĩnh, Khổng Minh chưa đáng.
Ngôi đế sư mà danh cao sĩ, ngoại vật há còn trong bụng, nghìn thu chữ thắm chửa phai vàng;
Nền nho giả mà giá danh thần, chẳng tiên nhưng cũng khác phàm, muôn kiếp sử xanh còn để sáng.
Nay độc danh thần truyện, xem thượng hữu thiên;
Trách ai thượng hữu cổ nhân, sao chẳng nguyện hy[68] Tử Phòng, mà lại nguyện hy Gia Cát Lượng.
Trương Lưu Hầu tức Trương Lương, hiệu Tử Phòng, tổ tiên 5 đời làm quan nước Hàn. Sau nước Hàn bị nhà Tần diệt, ông căm giận bỏ nghìn vàng đi tìm lực sĩ để đón đánh Tần Thuỷ Hoàng ở Bác Lãng, nhưng đánh nhầm phải xe sau, không trúng. Cuối nhà Tần, các chư hầu cùng nổi lên chống nhà Tần, Trương Lương lại làm tướng nước Hàn. Vua nước Hàn sai ông theo vua Hán Cao Tổ vào đánh nhà Tần. Sau vua nước Hàn bị Hạng Vũ nước Sở giết, ông về với nhà Hán và giúp Hán Cao Tổ diệt nước Sở. Ông là người lắm mưu nhiều kế, được phong hầu ở đất Lưu nhưng biết rằng Hán Cao Tổ tính hay ngờ ghét người tôi có công nên thác ra là mộ đạo tu tiên, không ăn thóc gạo rồi đi ở ẩn.
[1] Ngao là thứ chó to lớn, cực là góc trời. Sách Hoài Nam tử: “Đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực” 斷獒足以立四極 (Chặt chân chó ngao để dựng bốn góc trời). Ở đây ý nói chịu khí tốt của trời đất.
[2] Con cáo lâu năm đã thành tinh, dân gian thường ví với người thông minh. Ở đây ý nói người thông minh nhưng giấu không lộ cho ai biết. Trương Lương tương truyền tướng mạo như đàn bà.
[3] Mặt mày khôi ngô sáng sủa.
[4] Người học trò dáng vẻ khác người thường.
[5] Hiểu biết và có tài cao xa.
[6] Người có học và nổi danh.
[7] Áo cà sa và bát ăn cơm, nguyên dùng chỉ những thứ Phật tử truyền cho nhau. Ở đây chỉ việc nối nghiệp dòng dõi cha ông.
[8] Đàn và sách, chỉ việc học hành.
[9] Cái chuông và cái vạc, chỉ nhà quyền thế. Xưa nhà quan to bữa ăn có đánh chuông, nấu món ăn bằng vạc.
[10] Chỉ thời giặc giã loạn lạc.
[11] Tô Tần, Trương Nghi, các thuyết khách nổi tiếng thời Chiến Quốc, có thể dùng miệng lưỡi khiến các nước đánh hay hoà với nhau. Câu này ý nói Trương Lương không thèm dùng miệng lưỡi để lập công danh như Nghi, Tần.
[12] Chỉ cuộc biến đổi, tức khi nước mất.
[13] Kinh Kha, Dự Nhượng, các thích khách thời Chiến Quốc.
[14] Trương Lương gặp Hoàng Thạch Công. Hoàng Thạch Công giả rơi chiếc dép, Trương Lương cúi xuống nhặt lễ phép nên được Hoàng Thạch Công bảo là có thể dạy được và trao cho ba quyển binh thư.
[15] Trương Lương sai lực sĩ lấy chuỳ đánh Tần Thuỷ Hoàng ở Bác Lãng để báo thù nước Hàn.
[16] Tự của Tần Thuỷ Hoàng. Ở đây ý nói lực sĩ đánh không trúng vì nhầm xe, nhưng cũng khiến Tần Thuỷ Hoàng mất vía, như con rồng bị sây trật vảy.
[17] Trương Lương gặp Hán Cao Tổ ở Trần Lưu rồi đem ba quyển binh thư nhận từ Hoàng Thạch Công mà dạy Hán Cao Tổ.
[18] Tức Hán Cao Tổ, từng giữ chức đình trưởng.
[19] Người có thể tin tưởng, trông cậy.
[20] Ý nói Trương Lương chỉ ở trong màn trướng mà bày mưu lập chước.
[21] Lúc đánh Tần, Trương Lương sai cắm nhiều cờ trên núi Quỹ để cho quân Tần nghĩ trên núi có nhiều quân, rồi bỏ chạy mà thua trận.
[22] Nhà Tần đóng đô ở Quan Trung là nơi hiểm trở, hai người có thể chống lại trăm người.
[23] Thành Cai Hạ. Trương Lương thổi kèn làm cho tám nghìn quân nước Sở động lòng nhớ quê bỏ trốn hết cả.
[24] Hán Cao Tổ từ lúc khởi binh đến làm vua trong vòng năm năm.
[25] Hán Cao Tổ lúc mới đánh được nhà Tần, thấy cung nhà Tần nguy nga muốn ở lại. Phàn Khoái can gián nhưng vua không nghe. Trương Lương nói rằng: “Lời nói ngay trái tai nhưng mà có ích lợi cho công việc, cũng như uống thuốc đắng miệng nhưng mà khỏi bệnh, nên nghe theo lời nói của Phàn Khoái mà đừng ở cung nhà Tần”.
[26] Phàn Khoái can Hán Cao Tổ không nên ở lại cung nhà Tần mà làm phú ông.
[27] Ải Hồng Môn.
[28] Cuối hàng cha, tức hàng chú, chỉ Hạng Bá là chú của Hạng Vũ nước Sở. Trương Lương bảo Hán Cao Tổ mời Hạng Bá uống rượu ở Hồng Môn để nhờ Hạng Bá nói với Hạng Vũ đừng đánh mình.
[29] Dượng là chồng của em vợ. Phàn Khoái lấy em vợ Hán Cao Tổ nên được gọi là dượng. Trong tiệc ở Hồng Môn, Hạng Vũ toan giết Hán Cao Tổ, nhưng Phàn Khoái mang gươm, cắp mộc sấn vào trong tiệc giương mắt trừng trừng nhìn Hạng Vũ rồi giãi bày nghĩa lý cho Hạng Vũ nghe.
[30] Hán Cao Tổ trước được Sở Hoài Vương phong làm tước công ở đất Bái, nên vẫn được gọi là Bái Công.
[31] Trong tiệc Hồng Môn, Hạng Vũ say rượu, Trương Lương bảo Hán Cao Tổ cứ lẻn chạy về đẩt Bá Thượng để tránh khỏi bị Hạng Vũ hại.
[32] Hạng Vũ đóng đô ở Quan Trung. Trương Lương bèn cho tiền trẻ con đi đâu cũng hát rằng “Phú quý bất quy cố hương, như ý tú dạ hành” 富貴不歸故鄉,如衣繡夜行 (Giàu sang không về cố hương, như mặc áo gấm đi đêm). Hạng Vũ nghe câu hát, động lòng nhớ nhà bèn bỏ về đóng đô ở Bành Thành là quê cũ của mình. Hán Cao Tổ vì thế đánh lấy được đất Quan Trung.
[33] Hai con ngươi, chỉ Hạng Vũ. Hạng Vũ mỗi mắt có hai con ngươi.
[34] Chén ngọc.
[35] Chỉ Phạm Tăng, đã ngoài bảy mươi tuổi, là bầy tôi của Hạng Vũ, xui Hạng Vũ giết Hán Cao Tổ để tránh hậu hoạ nhưng Vũ không nghe. Trương Lương đem chén ngọc dâng Phạm Tăng, Phạm Tăng tức giận cầm gươm đập vỡ chén ngọc.
[36] Ông lão ngu dốt, chỉ Phạm Tăng.
[37] Quận Bao Trung, là lối đi vào đất Hán Trung. Trương Lương chính là bầy tôi nước Hàn. Hán Cao Tổ nói với vua nước Hàn mượn Trương Lương để vào đánh nhà Tần. Khi đã đánh được nhà Tần, Hạng Vũ phong cho Hán Cao Tổ vào đất Hán Trung, thì Trương Lương tiễn chân vua Hán đến quận Bao Trung rồi trở về nước Hàn.
[38] Trương Lương xui Hán Cao Tổ đốt đường sàn là lối vào đất Hán Trung, để tỏ cho Hạng Vũ biết là không có ý muốn trở về phía đông (là đất Quan Trung) để giành thiên hạ.
[39] Nước Hàn. Trương Lương khi từ biệt vua Hán Cao Tổ lại trở về nước Hàn.
[40] Dựng ra bè đảng. Câu này ý nói Trương Lương muốn gây dựng nước Hàn mà rong ruổi vẫy vùng trong thiên hạ.
[41] Nghe tin vua nước Hàn bị Hạng Vũ giết.
[42] Khó cách nào mà chiếm lấy được.
[43] Hướng về phía tây, là lại trở về với nhà Hán. Khi vua nước Hàn bị Hạng Vũ giết, thì Trương Lương lại về với nhà Hán.
[44] Hàn Tín là bầy tôi nước Sở, Trương Lương giả cách đi bán gươm, bảo Hàn Tín rằng gươm thiên tử đi bán cho vua Hán Cao Tổ, gươm thừa tướng đã bán cho Tiêu Hà, còn gươm nguyên suý thì đem bán cho Hàn Tín, rồi dụ được Hàn Tin về với nhà Hán.
[45] Người học hành giỏi nhất trong nước, chỉ Hàn Tín. Trương Lương chỉ mượn cách bán gươm, nói có mấy câu mà làm xiêu lòng Hàn Tín, những câu nói ấy đã như soi thấy bụng dạ của Hàn Tín vậy.
[46] Học trò hèn. Hán Cao Tổ bảo Lịch sinh là “thụ nho”.
[47] Quyên: bỏ, Quan: đất Quan Trung. Việc bỏ phía đông đất Quan Trung để trao quyền cho Hàn Tín, Anh Bố tự giữ lấy mà chống cự với Hạng Vũ.
[48] Trương Lương đưa thư cho Hạng Vũ nói nước Tề, nước Lương làm phản nước Sở, để cho Hạng Vũ đi đánh Tề, Lương mà hoãn việc đánh nhà Hán.
[49] Tình trạng làm phản.
[50] Khi vua Hán bị vây, Trương Lương treo tranh vua Tề Cảnh Công ngày trước bị vây thì có người ngự xe là Điền Phủ giả mạo làm vua để chết thay, rồi họp các tướng lại xem tranh, làm cho Kỷ Tín cũng theo kế ấy mà chết thay Hán Cao Tổ.
[51] Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ, ra hàng nước Sở rồi chịu chết, còn Hán Cao Tổ thừa cơ chốn được.
[52] Phàn Khoái. Trương Lương sai Phàn Khoái phục quân ở trong núi rồi đánh bắt được vua đất Hà Nam là Thân Dương.
[53] Tên khi nhỏ của Trần Bình. Trương Lương xui giục cho Nhụ Tử làm kế phản gián để cho Hạng Vũ ngờ vực các bầy tôi.
[54] Làm tước vương ở đất Tề, chỉ Hàn Tín. Hàn Tín xin Hán Cao Tổ cho làm vương ở đất Tề, Trương Lương bảo Hán Cao Tổ chiều ý mà phong cho.
[55] Khi Hàn Tín cho người đến cầu phong vương, vua Hán không bằng lòng, Trương Lương bấm gót chân vua Hán, ghé vào bên tai bảo vua cứ nên phong cho Hàn Tín.
[56] Khi Hán Cao Tổ đã đánh lấy được đất Quan Trung, Hạng Vũ toan đánh Hán Cao Tổ, Trương Lương đưa một bức thư viết rất lễ phép cho Hạng Vũ, khiến cho Hạng Vũ không đánh nữa.
[57] Người có sức mạnh lạ thường. Cưu: chim cắt, là thứ chim dữ; tráng: mạnh mẽ. Trương Lương dùng ba người mạnh mẽ là Hàn Tín, Anh Bố, Bành Việt để ngăn ngừa quân nước Sở.
[58] Hán, Sở hoà với nhau, chia đôi đất cát, từ sông Hồng Câu sang phía đông là phần đất của nhà Hán, sang phía tây là địa hạt nước Sở, toan thôi sự chiến tranh.
[59] Giết kẻ thù. Trương Lương nói với Hán Cao Tổ không nên nuôi hùm để lo về sau, nên nhà Hán lại tiếp tục đánh Sở.
[60] Khi Hán Cao Tổ bị vây ở đất Cố Lăng, Trương Lương bảo cắt ra một phần đất phong cho Hàn Tín, một phần đất phong cho Bành Việt, để cho hai người vui lòng đem quân đến đánh Hạng Vũ.
[61] Ý nói đánh Hạng Vũ. Theo Sử ký, Hàn sinh nói: “Sở nhân mộc hầu nhi quan” 所人沐猴而冠 (Người nước Sở như con khỉ tắm rửa mà đội mũ), chỉ Hạng Vũ.
[62] Sai khiến được quan tướng vào hạng bất đồng, chẳng khác gì người ngự xe sai khiến được con ngựa bất kham vậy. Trương Lương có tài lung lạc được những bọn Hàn Tín, Bành Việt cho nên mới đánh được Hạng Vũ.
[63] Trận đánh ở Cai Hạ, Trương Lương xem thiên văn trông các vì sao, biết rằng đánh trận ấy thế nào cũng diệt được Sở.
[64] Nhà Hán là họ Lưu. Hưng Lưu tức là làm cho họ Lưu dấy lên làm vua. Trương Lương xem địa lý đất Cai Hạ biết rằng đất ấy hợp với tuổi vua Hán Cao Tổ, thì tất nhiên nhà Hán hưng vượng mà đánh được nước Sở.
[65] Người làm ruộng.
[66] Vốn có nghĩa là bên trái đầm nước. Khi Hạng Vũ đánh trận thua chạy hỏi thăm đường thì người làm ruộng nói dối để cho chạy nhầm vào phía tay trái đầm nước, rồi mắc phải bùn lầy, thành ra quân nhà Hán đuổi kịp.
[67] Ông đình trưởng. Khi Hạng Vũ thua trận chạy đến sông Ô Giang thì có người đình trưởng chèo thuyền để đón, nhưng Hạng Vũ không chịu sang đò rồi tự tử.
[68] Xin bắt chước. Hán sử: “Chí sĩ nguyện hy Gia Cát Lượng, bất nguyện hy Trương Tử Phòng”, nghĩa là người học trò có chí muốn bắt chước Gia Cát Lượng mà không bắt chước Trương Tử Phòng. Đây Hữu Chỉnh nói người đời nghĩ thế là không biết người.