26/04/2024 23:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tống Nhạc Quý Phương hoàn kinh
送岳季方還京

Tác giả: Quách Đăng - 郭登

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Minh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/01/2019 22:22

 

Nguyên tác

登高樓,望明月,
明月秋來幾圓缺。
多情只照綺羅筵,
莫照天涯遠行客。
天涯行客離家久,
見月思鄉搔白首。
年年長自送行人,
折盡邊城路旁柳。
東望秦川一雁飛,
可憐同住不同歸。
身留塞北空彈鋏,
夢繞江南未拂衣。
君歸復喜登臺閣,
風裁棱棱尚如昨。
但令四海歌昇平,
我在甘州貧亦樂。
甘州城西黑水流,
甘州城北胡雲愁。
玉關人老貂裘敝,
苦憶平生馬少遊。

Phiên âm

Đăng cao lâu, vọng minh nguyệt,
Minh nguyệt thu lai kỷ viên khuyết.
Đa tình chỉ chiếu khởi la diên[1],
Mạc chiếu thiên nhai viễn hành khách.
Thiên nhai hành khách ly gia cửu,
Kiến nguyệt tư hương tao bạch thủ.
Niên niên trường tự tống hành nhân,
Chiết tận biên thành lộ bàng liễu.
Đông vọng Tần Xuyên[2] nhất nhạn phi[3],
Khả lân đồng trú bất đồng quy.
Thân lưu tái bắc không đàn giáp[4],
Mộng nhiễu Giang Nam[5] vị phất y[6].
Quân quy phục hỷ đăng đài các[7],
Phong tài[8] lăng lăng[9] thượng như tạc.
Đãn linh tứ hải ca thanh bình,
Ngã tại Cam Châu bần diệc lạc.
Cam Châu thành tây Hắc thuỷ[10] lưu,
Cam Châu thành bắc Hồ vân[11] sầu.
Ngọc Quan nhân lão[12] điêu cừu tệ[13],
Khổ ức bình sinh Mã Thiếu Du[14].

Dịch nghĩa

Lên lầu cao nhìn trăng sáng
Trăng sáng từ thu đến nay đã bao lần tròn khuyết
Trăng đa tình chỉ chiếu vào tiệc lụa hoa
Không chiếu đến khách xa ở nơi chân trời
Khách chân trời xa quê đã lâu
Thấy trăng nhớ quê gãi đầu bạc
Năm lại năm tiễn người về
Bẻ hết cành liễu bên đường biên thành
Nhìn Tần Xuyên về phía đông một cánh nhạn bay
Thương thay cùng ở mà không cùng về
Thân ở lại tái bắc gõ cán gươm
Mộng quanh quẩn ở Giang Nam tuy chưa phủi áo
Bác về lại vui bước lên đài các
Phong độ vẫn đường bệ như trước
Nếu trong bốn biển được ca khúc thăng bình
Tôi ở lại Cam Châu dẫu nghèo cũng vui
Phía tây thành Cam Châu dòng Hắc Thuỷ chảy
Phía bắc thành Cam Châu mây Hồ buồn
Người ở Ngọc Quan già đi, áo da chồn rách
Cả đời nhớ đến Mã Thiếu Du

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Lên lầu cao cùng trông trăng tỏ
Khuyết tròn qua mấy độ trăng thu
Đa tình trăng chiếu tiệc hoa
Chẳng chiếu đến khách ở xa chân trời
Khách chân trời cách vời quê mãi
Nhớ trăng quê đầu gãi bạc thêm
Người về năm tiễn lại năm
Bẻ hết cành liễu ở bên đường thành
Đông Tần Xuyên một mình nhạn biếc
Thương ở cùng chẳng được cùng về
Tái bắc gõ cán não nề
Tuy chưa phủi áo mộng kề Giang Nam
Bác về lại lên nền đài các
Phong độ rồi chẳng khác ngày qua
Chỉ cần bốn biển hoà ca
Cam Châu tôi ở nghèo mà vẫn vui
Tây Cam Châu chảy suôi Hắc Thuỷ
Mây hồ buồn bắc phủ Cam Châu
Ngọc Quan già vóc rách cừu
Nhớ sao chàng Mã Thiếu Du trọn đời
Nhạc Quý Phương tên là Chính, tự là Quý Phương, người huyện Quách (nay là huyện Thông, Bắc Kinh), đệ nhất danh thi hội năm Chính Thống thứ 13, đệ tam danh thi đình. Đầu năm Thiên Thuận thăng tu soạn, nhập trực nội các. Vì đắc tội với bọn quyền hành Thạch Hanh và Tào Cát Tường, bị biếm trích Túc Châu (nay là Tửu Tuyền, Cam Túc). Đầu năm Thành Hoá phục chức, ra làm tri phủ Hưng Hoá. Khi chết thuỵ là Văn Chính. Khi Nhạc Chính về kinh, Quách Đăng chưa được phục tước, vẫn ở lại Cam Châu (nay là Trương Dịch, Cam Túc). Cùng là người bị biếm trích, song cảnh ngộ khác nhau, khiến lòng người tự sinh cảm khái. Bài thơ này phần là tiễn Nhạc Chính, nhưng nặng về mô tả nội tâm mình khi chưa được triệu hồi, ai oán khi vẫn ở lại nơi thú thủ, cảm khái thê lương.

[1] Tiệc ở nhà giàu sang. Bài Vịnh điền gia của Nhiếp Di Trung đời Đường: “Ngã nguyện quân vương tâm, Hoá tác quang minh chúc; Bất chiếu khởi la diên, Chỉ chiếu đào vong ốc” (Ta mong lòng quân vương, Hoá thành bó đuốc sáng; Không chiếu vào tiệc sang, Chiếu vào nhà trốn vắng). Hai câu “Đa tình” tác giả hoá dụng thơ của Nhiếp, tỏ rõ nỗi buồn biệt ly.
[2] Chỉ chung dải đất bình nguyên Thiểm Tây, Cam Túc, Tần Lĩnh về bắc. Thời Chiến Quốc thuộc về nước Tần cho nên có tên.
[3] Chỉ Nhạc Chính về kinh.
[4] Chỉ Phùng Hoan là khách của Mạnh Thường Quân, gõ cán kiếm mà hát. Dùng điển này để chỉ không được trọng dụng oán trách vẫn phải làm lính thú ở nơi xa.
[5] Chỉ cố hương. Quách Đăng là con cháu của công thần Vũ Định hầu Quách Anh buổi đầu Minh. Nam Kinh là nơi ông sống thời còn nhỏ.
[6] Phủi áo, chỉ từ chức về quê, câu này ý là tác giả tuy thường nhớ đến quê hương Giang Nam, song chưa thể từ chức để về.
[7] Chỉ thượng thư đài đời Hán, sau chỉ chung cơ cấu đầu não của chính phủ.
[8] Tức phong độ, khí thế.
[9] Vẻ uy nghiêm, chững chạc.
[10] Tức sông Cam Châu của Cam Túc ngày nay.
[11] Mây trên bầu trời đất Hồ.
[12] Thời Tống Thần Tông, Thái Đĩnh ở Vị Châu (nay là giải Bình Lương, Cam Túc) làm tri châu, ấm ức không đắc chí gửi ý vào từ khúc, có than cho “Ngọc Quan nhân lão”, được Thần Tông đồng tình, triệu về phong làm khu mật phó sứ.
[13] Thời Chiến Quốc, Tô Tần đi du thuyết nước Tần dâng thư mười lần, Tần Huệ Vương đều không dùng. Vì ở đất Tần qua một thời gian dài, tiền mang theo tiêu hết, áo da chồn đem mặc đã bị rách, đành phải rời nước Tần, câu này tác giả dùng cả hai điển cố, ngậm ngùi than cho cảnh ngộ của mình.
[14] Em họ của danh tướng Mã Viện đời Đông Hán. Ông cho là theo đuổi công danh lợi lộc chỉ là tự chuốc lấy nỗi khổ, chỉ cần có một cuộc sống bình thường, làm một chức quan nhỏ ở làng, tình duyên không trắc trở, thế là đủ rồi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Quách Đăng » Tống Nhạc Quý Phương hoàn kinh