01/12/2023 11:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Từ phẩm; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
Đăng bởi Vanachi vào 08/07/2005 12:43

Nguyên tác
林花謝了春紅,
太匆匆。
無奈朝來寒雨,
晚來風。
胭脂淚,
相留醉,
幾時重。
自是人生長恨,
水長東。
Phiên âm
Lâm hoa tạ liễu xuân hồng,
Thái thông thông.
Vô nại triêu lai hàn vũ,
Vãn lai phong.
Yên chi lệ[1],
Tương lưu tuý,
Kỷ thời trùng.
Tự thị nhân sinh trường hận,
Thuỷ trường đông.Dịch nghĩa
Hoa rừng đã làm tàn phai màu xuân hồng,
Quá gấp gáp.
Không làm sao được với cơn mưa lạnh đang tới,
Cơn gió chiều.
Nước mắt trên má,
Hoa và người làm say lẫn nhau,
Bao giờ mới gặp lại?
Như cõi nhân sinh ai cũng đều có mối hận,
Như dòng nước chảy mãi về đông.Bản dịch của Nguyễn Chí Viễn
Rừng xuân tàn tạ thưa hồng,
Rối lung bung.
Không cản ban mai mưa lạnh,
Gió chiều dông.
Đỏ ngầu lệ,
Say tuý luý,
Lại tuôn ròng.
Từ đây kiếp người trường hận,
Nước xuôi đông.
Nguồn: Nguyễn Chí Viễn, Tuyển tập từ Trung Hoa - Nhật Bản, NXB Văn hoá - Thông tin, 1996
[1] Chỉ những giọt nước mưa trên hoa. Chữ từ thơ Đỗ Phủ trong bài Khúc giang đối vũ 曲江對雨: “Lâm hoa trước vũ yên chi thấp” 林花著雨胭脂濕 (Rừng hoa bị mưa như son phân bị ướt).