20/04/2024 10:55Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hổ Nha hành
虎牙行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/03/2015 18:30

 

Nguyên tác

秋風欻吸吹南國,
天地慘慘無顏色。
洞庭揚波江漢回,
虎牙銅柱皆傾側。
巫峽陰岑朔漠氣,
峰巒窈窕溪谷黑。
杜鵑不來猿狖寒,
山鬼幽憂雪霜逼。
楚老長嗟憶炎瘴,
三尺角弓兩斛力。
壁立石城橫塞起,
金錯旌竿滿雲直。
漁陽突騎獵青丘,
犬戎鎖甲聞丹極。
八荒十年防盜賊,
征戍誅求寡妻哭,
遠客中宵淚沾臆。

Phiên âm

Thu phong huất hấp xuy nam quốc,
Thiên địa thảm thảm vô nhan sắc.
Động Đình[1] dương ba Giang Hán[2] hồi,
Hổ Nha đồng trụ giai khuynh trắc.
Vu Giáp âm sầm sóc mạc khí,
Phong loan yểu điệu khê cốc hắc.
Đỗ quyên bất lai viên dứu hàn,
Sơn quỉ u ưu tuyết sương bức.
Sở lão trường ta ức viêm chướng,
Tam xích giác cung lưỡng hộc lực.
Bích lập thạch thành hoành tái khởi,
Kim thố tinh can mãn vân trực.
Ngư Dương đột kỵ lạp thanh khâu[3],
Khuyển Nhung toả giáp văn đan cực[4].
Bát hoang thập niên phòng đạo tặc.
Chinh thú thù cầu quả thê khốc,
Viễn khách[5] trung tiêu lệ triêm ức.

Dịch nghĩa

Gió thu vù vù thổi tới phía nam,
Trời đất buồn thảm vẻ không vui.
Hồ Động Đình nổi sóng trở về vùng Giang Hán,
Cột đồng nơi Hổ Nha đều lung lay.
Bờ kẽm Vu âm u có hơi từ vùng sa mạc phía bắc tới,
Núi non mờ mờ khe suối đen ngòm.
Chim cuốc vắng bóng, khỉ vượn bị cóng,
Quỷ núi co ro, sương tuyết lạnh.
Ông già vùng Sở than dài nhớ đến cảnh oi bức,
Cái cung sừng ba tấc mà dùng đến hai đấu sức.
Thành đá có luỹ được dựng lên chắn ngang biên giới,
Cán cờ nạm vàng phất phơ trong mây.
Đội quân tiền phương vùng Ngư Dương đi săn ở gò xanh,
Rợ Khuyển Nhung bỏ áo lính, nghe nhạc ở nơi cửa đỏ.
Đã mười năm rồi khắp nơi lo phòng giặc giã,
Các bà goá khóc than vì phải đóng góp chi phí cho chiến tranh,
Khách xa nhà nửa đêm khóc đến ướt cả ngực.

Bản dịch của Phạm Doanh

Gió thu vù vù thổi vùng nước,
Đất trời lù mù không có sắc.
Động đình nổi sóng dạt vào sông,
Cột đồng Hổ Nha đều lúc lắc.
Vu Giáp sườn đen khí bắc oi,
Đỉnh, vũng chập chờn, mờ hang hốc.
Đỗ quyên không về khỉ vượn rầu,
Quỉ núi co ro sương tuyết lốc.
Già Sở than dài nhớ hơi nồng,
Cung cong ba tấc, hai đấu sức.
Tường đứng thành đá chắn ngang biên,
Cán cờ nạm vàng mây dầy bọc.
Kỵ mã Ngư Dương săn gò xanh,
Khuyển Nhung cởi giáp, chơi thềm rực.
Mười năm nơi nơi lo phòng giặc,
Cung ứng quân nhu bà goá khóc,
Khách lạ nửa đêm lệ ướt ngực.
(Năm 767)

Nguyên chú: “Hổ Nha tại Kinh Môn chi bắc, giang thuỷ tuấn cấp” 虎牙在荊門之北,江水峻急 (Hổ Nha ở bắc Kinh Môn - huyện thuộc Hồ Bắc nằm trong lưu vực hai sông Chương và sông Hán, có núi Kinh - nước sông chảy mạnh).

[1] Hồ ở phía bắc tỉnh Hồ Nam, phía nam sông Trường Giang, có bốn con sông chảy vào là: Tương 湘, Tư 資, Nguyên 沅, Lễ 澧 thuộc các cửa Tùng Tư 松滋, Thái Bình 太平, Ngẫu Trì 藕池, Điều Huyền 調弦, thông với sông Trường Giang tại thành Nhạc Dương. Hồ như một cái túi giúp điều hoà lượng nước sông Trường Giang.
[2] Chỉ Quỳ Châu do nằm trong lưu vực sông Trường Giang và Hán Thuỷ.
[3] Nơi thần tiên ở, đây chỉ cung điện vua Đường đã bị quân An Lộc Sơn chiếm giữ.
[4] Cung điện vua. Nhà Đường cầu viện rợ Khuyển Nhung để dẹp loạn trong nước.
[5] Tác giả tự chỉ mình.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Hổ Nha hành