16/04/2024 21:03Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thần Phù hải khẩu
神符海口

Tác giả: Nguyễn Trãi - 阮廌

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 16/04/2007 18:58

 

Nguyên tác

故國歸心落雁邊,
秋風一葉海門船。
鯨噴浪吼雷南北,
槊擁山連玉後前。
天地多情恢巨浸,
勳名此會想當年。
日斜倚棹滄茫立,
冉冉寒江起暮煙。

Phiên âm

Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình[1] phun lãng hống lôi nam bắc,
Sóc[2] ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm,
Huân danh thử hội tưởng đương niên.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.

Dịch nghĩa

Theo cánh nhạn hướng lòng về quê cũ
Chiếc thuyền lan ở cửa biển như chiếc lá trong gió thu
Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc
Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau
Trời đất đã cố tình mở ra vịnh lớn
Công danh gặp hội nhớ lại năm nào
Chiều tà dựa vào cột chèo nhìn cảnh bát ngát
Dòng sông lạnh mênh mông trong khói mù.

Bản dịch của Cao Nguyên

Lòng hướng về quê theo cánh nhạn
Thuyền ra cửa biển lá thu phong
Sấm gầm sóng vỗ rền nam bắc
Núi trước non sau dựng mũi đòng
Trời đất mở lòng khơi vịnh lớn
Năm nào gặp hội đã dày công
Chiều tà tựa mái chèo trông ngóng
Ngun ngút khói mù lạnh nước sông
Thần Phù một hải khẩu tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, xưa đoàn chiến thuyền của vua Hùng Vương qua đây bị gió chướng, nhờ một đạo sĩ tên là La Viên dùng phép làm biển lặng giúp vượt qua. Khi trở về không thấy ân nhân nữa, vua bèn phong cho Người là Áp Lăng Chân Nhân (vị chân nhân dằn được sóng) và lập đền thờ bên bờ cửa khẩu. Vua Lê Thánh Tông về sau khi qua cửa Thần Phù cũng đã làm thơ lưu lại.

[1] Sóng kình, ý nói chiến thuyền địch. Đây ngụ ý nói chung về các chiến thuyền hoạt động trong thời gian qua tại cửa khẩu (vào thời Hồ Quý Ly chống Minh).
[2] Cây nứa, một loại tre dùng làm giáo rất bén.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Trãi » Thần Phù hải khẩu