26/04/2024 00:37Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phần 03
Часть 03

Tác giả: Rasul Gamzatov - Расул Гамзатов

Nước: Nga
Đăng bởi nguyenvanthiet vào 07/06/2007 05:00

 

Nguyên tác

21

Волна морская к берегу стремится,
Ее выносит на песок прибой.
И вот уже недолгая граница
Ложится между морем и волной.

Но по законам берега и моря,
Обратно к морю катится она.
О мой народ, и в радости, и в горе
Ты - это море, я - твоя волна.

22

«Ты мне ответь, веселый человек,
Что так печален твой напев искусный?»
«И у того, кто весел целый век,
Бывает сын задумчивый и грустный!»

«Ты объясни мне, грустный человек,
Откуда лад твоих веселых песен?»
«И у того, кто грустен целый век,
Бывает сын и радостен, и весел!»

23

Я вновь в краю, где дует горный ветер,
И я не узнаю родного края:
Язык отцов не понимают дети.
Язык мой отживает, умирает.

Ужели мы на языке аварцев
Не будем думать, песни петь и спорить...
Что делать - реки в море впасть стремятся,
Хоть сами знают: их поглотит море.

24

Я редко радуюсь своим победам,
Мне кажется - в стихах чего-то нет.
Мне кажется - идет за мною следом
Уже рожденный истинный поэт.

Пусть удивит он мир созвучьем новым,
Которого я, может, не пойму,
И пусть меня однажды добрым словом
Помянет за любовь мою к нему.

25

Нового, сверхмощного оружья
Не изобретайте для людей.
Стародавнее оружье - дружба
Вложена в ножны души моей.

Нам отцы и деды завешали
Золото оружья своего,
Чтобы мы сломать его не дали,
Чтоб не дали затупить его.

26

Шумит листвой иной зеленый сад
И шепчет: мол, цвету я всем на зависть!
А в небе тучи, предвещая град,
Глядят, смеясь, на молодую завязь.

Иные люди с легкостью твердят,
Как счастливо они живут на свете.
А счастье хмурит свой недобрый взгляд:
«Какие вы глупцы, какие дети!»

27

«Дайте мне отцовского коня,
Я скакать умею, слава богу!»
Я вскочил в седло, но конь меня
Сбросил, и упал я на дорогу.

«Тише, люди. Я играть начну,
Дайте мне пандур отца хваленый...»
Только тронул пальцами струну -
И струна оборвалась со звоном.

28

Не вечным мне кажется наш небосвод.
Он шатким и ветхим порою мне кажется.
Порою мне кажется: небо вот-вот
Падет мне на голову всей своей тяжестью.

Но высятся горы, и я защищен
Вершинами горными, горными кручами,
Они подпирают собой небосклон,
Как старую кровлю опоры могучие.

29

«Где же ты, счастье, где светлый твой лик?»
«Я на вершинах, куда не всходил ты!»
«Где же ты, счастье? Вершин я достиг».
«В реках, в которых покуда не плыл ты!»

«Где ты, я тысячу рек переплыл?»
«В песнях, которые завтра ты сложишь!»
«Где ты, я песню тебе посвятил?»
«Я впереди! Догони, если можешь!»

30

На полях, где зреет урожай,
Мы скупую землю орошаем.
На полях созреет урожай -
Мы хлеба под корень подрезаем.

Но просторы этих же полей
Нашей кровью орошает горе.
И самих жнецов, и плугарей,
Как хлеба, срезает нас под корень.

Bản dịch của Hồ Thượng Tuy

21

Hướng về bờ từng đợt sóng khát khao
Biển đẩy sóng lên cát vàng, lên đá
Và luôn luôn một vạch nước không lâu
Nằm trải ra giữa sóng và biển cả.

Nhưng theo qui luật của bờ và biển
Vạch nước kia lại về biển mà thôi
Nhân dân ơi, trong khổ đau, sung sướng
Biển – nhân dân, tôi – ngọn sóng của người.

22

"Trả lời tôi, hỡi con người vui vẻ
Bài hát của anh sao lắm đau buồn?"
"Ở con người mà vui suốt thế kỷ
Thường có đứa con trầm lặng, sầu thương!"

"Thế tại sao, hỡi con người buồn bã
Ngươi lấy đâu ra những bài thơ vui?"
"Ở con người mà buồn suốt thế kỷ
Thường có đứa con mừng rỡ, vui tươi!"

23

Tôi lại về nơi ngọn gió đồi đang thổi
Tôi không còn nhận diện được quê hương
Con trẻ bây giờ không hiểu tiếng cha ông
Tiếng của tôi chết dần, đang hấp hối.

Chẳng lẽ chúng ta bằng tiếng Avar
Không còn nghĩ suy, cãi nhau và hát
Biết làm sao – sông tìm biển đổ ra
Dù biết rằng: bị biển kia nuốt mất.

24

Thắng lợi của tôi, tôi ít khi mừng
Tôi ngỡ rằng – trong thơ còn chưa đủ.
Tôi ngỡ rằng – dấu vết đi sau lưng
Đã sinh ra một nhà thơ thực sự.

Mặc nhà thơ làm cuộc đời kinh ngạc
Bằng giọng ngân vang tôi chẳng hiểu ra
Mặc cho một lần bằng lời tốt đẹp
Nhắc đến tình tôi đối với thơ ca.

25

Những vũ khí mới cực kỳ hiện đại
Đừng chế tạo ra chống lại con người.
Vũ khí tự ngàn xưa – tình hữu ái
Hãy đặt vào trong bao vỏ cho tôi.

Lời di chúc của cha ông để lại
Cho chúng ta là thứ vũ khí vàng
Để chúng ta không cho ai bẻ gãy
Để chúng ta không cho họ làm cùn.

26

Trong vườn xanh những chiếc lá reo vang
Rồi thì thầm: ta ghen cùng ánh sáng!
Còn trên trời những đám mây trĩu nặng
Ngó xuống cười những chiếc lá còn xanh.

Còn một số người dễ dàng qủa quyết
Rằng họ hạnh phúc sung sướng trên đời.
Còn hạnh phúc thì lại chau lông mày:
"Ôi các con thật vô cùng dại dột!"

27

"Hãy đưa tôi con ngựa của cha tôi
May mắn thay là tôi còn biết nhảy!"
Tôi nhảy lên và con ngựa quẳng tôi
Ngã lăn quay bên vệ đường lúc ấy.

"Mọi người nghe. Tôi bắt đầu chơi đây
Trao cho tôi cây đàn cha ca tụng..."
Chỉ vừa mới động ngón tay vào dây
Thì dây đàn đứt ra cùng với tiếng.

28

Tôi cứ ngỡ bầu trời không muôn thuở
Mà nát nhàu và ọp ẹp, rung rinh
Giờ tôi ngỡ rằng bầu trời sắp sửa
Đổ xuống đầu tôi với sức nặng của mình.

Nhưng những ngọn núi nhô cao bảo vệ
Bằng những đỉnh cao bằng những dốc cao
Chúng sừng sững vươn mình lên chống đỡ
Như mái nhà xưa có những cột to cao.

29

"Hạnh phúc ơi, ở đâu gương mặt ngươi kiều diễm?"
"Trên đồi cao, người chưa tới bao giờ!"
"Ngươi ở đâu? Đồi cao tôi đã đến".
"Ơ trên sông, nơi người chẳng đi qua!"

"Ngươi ở đâu? Nghìn con sông đã bơi".
"Trong bài hát, ngày mai người sẽ nghĩ!"
"Ngươi ở đâu? Bài hát viết xong rồi".
"Ở phía trước! Hãy theo, nếu còn có thể!"

30

Trên những cánh đồng lúa đang tốt tươi
Ta tưới nước cho mặt đất khô khốc.
Trên những cánh đồng lúa đã chín rồi
Những ruộng lúa mì ta cắt tận gốc.

Nhưng khoảng rộng của những cánh đồng này
Tưới bằng máu của ta bao khó nhọc
Và chính những người thợ gặt, thợ cày
Như lúa mì đang bị cắt tận gốc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Rasul Gamzatov » Phần 03