30/03/2024 04:14Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phụng tặng Quách trung thừa kiêm thái bộc khanh sung Lũng Hữu tiết độ sứ tam thập vận
奉送郭中丞兼太僕卿充隴右節度使三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 16/03/2015 22:37

 

Nguyên tác

詔發西山將,
秋屯隴右兵。
淒涼餘部曲,
燀赫舊家聲。
雕鶚乘時去,
驊騮顧主鳴。
艱難須上策,
容易即前程。
斜日當軒蓋,
高風卷旆旌。
松悲天水冷,
沙亂雪山清。
和虜猶懷惠,
防邊不敢驚。
古來于異域,
鎮靜示專征。
燕薊奔封豕,
周秦觸駭鯨。
中原何慘黷,
餘孽尚縱橫。
箭入昭陽殿,
笳吟細柳營。
內人紅袖泣,
王子白衣行。
宸極祅星動,
園陵殺氣平。
空餘金碗出,
無復穗帷輕。
毀廟天飛雨,
焚宮火徹明。
罘罳朝共落,
棆桷夜同傾。
三月師逾整,
群胡勢就烹。
瘡痍親接戰,
勇決冠垂成。
妙譽期元宰,
殊恩且列卿。
幾時回節鉞,
戮力掃欃槍。
圭竇三千士,
雲梯七十城。
恥非齊說客,
只似魯諸生。
通籍微班忝,
周行獨坐榮。
隨肩趨漏刻,
短髮寄簪纓。
徑欲依劉表,
還疑厭禰衡。
漸衰那此別,
忍淚獨含情。
廢邑狐狸語,
空村虎豹爭。
人頻墜塗炭,
公豈忘精誠。
元帥調新律,
前軍壓舊京。
安邊仍扈從,
莫作後功名。

Phiên âm

Chiếu phát Tây Sơn tướng,
Thu đồn Lũng Hữu binh.
Thê lương dư bộ khúc,
Xiển hách cựu gia thanh[1].
Điêu ngạc[2] thừa thì khứ,
Hoa lưu cố chủ minh.
Gian nan tu thượng sách,
Dung dị tức tiền trình.
Tà nhật đương hiên cái,
Cao phong quyển bái tinh.
Tùng bi Thiên Thuỷ lãnh,
Sa loạn Tuyết Sơn thanh.
Hoà lỗ do hoài huệ,
Phòng biên bất cảm kinh.
Cổ lai vu dị vực,
Trấn tĩnh thị chuyên chinh.
Yên, Kế bôn phong thỉ[3],
Chu, Tần xúc hãi kình.
Trung nguyên hà thảm độc,
Dư nghiệt thượng tung hoành.
Tiễn nhập Chiêu Dương[4] điện,
Già ngâm Tế Liễu[5] dinh.
Nội nhân[6] hồng tụ khấp,
Vương tử bạch y hành[7].
Thần cực[8] yêu tinh động,
Viên lăng[9] sát khí bình.
Không dư kim uyển xuất[10],
Vô phục tuệ duy khinh.
Huỷ miếu thiên phi vũ,
Phàn cung hoả triệt minh.
Phù ti triều cộng lạc,
Luân giác dạ đồng khuynh.
Tam nguyệt sư du chỉnh,
Quần Hồ[11] thế tựu phanh.
Sang di thân tiếp chiến,
Dũng quyết quán thuỳ thành.
Diệu dự kỳ nguyên tể,
Thù ân thả liệt khanh.
Kỷ thì hồi tiết việt[12],
Lục lực tảo sàm sanh.
Khuê đậu tam thiên sĩ,
Vân thê thất thập thành.
Sỉ phi Tề thuyết khách[13],
Chỉ tự Lỗ chư sinh[14].
Thông tịch vi ban thiểm,
Chu hành độc toạ vinh.
Tuỳ kiên xu lậu khắc,
Đoản phát ký trâm anh.
Kính dục y Lưu Biểu[15],
Hoàn nghi yếm Nễ Hành[16].
Tiệm suy na thử biệt,
Nhẫn lệ độc hàm tình.
Phế ấp hồ ly ngữ,
Không thôn hổ báo tranh.
Nhân tần truỵ đồ thán,
Công khởi vong tinh thành.
Nguyên suý điều tân luật,
Tiền quân áp cựu kinh.
An biên nhưng hỗ tụng,
Mạc tác hậu công danh.

Dịch nghĩa

Chiếu của vua ra lệnh ông tướng vùng Tây Sơn,
Mùa thu này phải mang quân ra đóng đồn ở Lũng Hữu.
Đội quân của ông thật đau buồn,
Nhưng tiếng tăm cũ của gia tộc ông còn lừng lẫy.
Chim điêu chim ngạc nhân đó mà bỏ đi,
Ngựa hoa lưu quay đầu nhìn chủ cũ mà hí.
Khó khăn là theo sách lược từ trên ban xuống,
Nhẹ nhàng là bước đi trước mắt.
Trời chiếu ngay bên lọng xe,
Gió trên cao cuốn cờ xí.
Thông buồn nơi Thiên Thuỷ lạnh lẽo,
Bụi tung nơi Tuyết Sơn trong lành.
Giảng hoà với giặc là do lòng nhớ ơn,
Giữ biên giới đâu có dám xúc động.
Từ xưa đến nay tới miền đất lạ,
Trấn giữ cho yên đó là quyền tuyệt đối của vị chỉ huy.
Vùng châu Yên, châu Kế lũ heo rừng bỏ chạy,
Vùng đất Tần thuộc nhà Chu xưa, cá kình kinh sợ vùng vẫy.
Vùng trung nguyên sao mà buồn chán làm vậy,
Tàn dư bọn giặc vẫn còn quấy nhiễu.
Tên bắn vào tới điện Chiêu Dương,
Tiếng khèn vang vọng nơi dinh Tế Liễu.
Các người hầu gái khóc tay áo đỏ thấm nước mắt,
Các con cháu nhà vua mặc áo trắng đi.
Sao xấu làm náo động sao bắc,
Nơi vườn lăng không khí chết chóc tràn lan.
Chỉ thấy chén vàng xuất hiện,
Mà không thấy đuôi màn cửa phất phới lại.
Nơi miếu đổ nát trời tuôn mưa bay,
Các nhà to bị đốt lửa sáng rực.
Rèm thêu nơi cung điện một chiều mà bay tung hết,
Cột lim trong một đêm cùng ngả nghiêng.
Ba tháng liền quân đội tới cứu vãn,
Bóng giặc Hồ thế vẫn còn mạnh.
Thương tật nhưng vẫn đích thân tác chiến,
Quyết một lòng dốc sức mà vượt lên đến thành công.
Lời khen ngợi thân thiết chờ đợi phát ra từ vị chủ tể,
Cái ân huệ đặc biệt khác với các quan.
Chừng nào thì cờ tiết với phủ việt sẽ trở về,
Để cùng chung sức quét sạch các sao chổi.
Ba ngàn kẻ sĩ chốn quê mùa,
Dùng thang mây chiếm được bảy mươi thành.
Thấy nhục không làm được như người nước Tề có sách dụ các nước,
Mà chỉ giống như một học trò nước Lỗ.
Theo danh sách các quan thì ông ở cấp bậc khiêm tốn thấp,
Nhưng về con đường chính thống ông một mình ngồi vững.
Trong giây lát có thể quyết định đưa lưng ra gánh vác,
Tóc ngắn được cài trâm, buộc giải.
Đường lối muốn theo cách của Lưu Biểu,
Cuối cùng lại bị nghi và ghét như Nễ Hành.
Dần dà sút kém từ lần chia tay này,
Cố kìm nước mắt mà nín giữ trong lòng.
Ấp tan hoang loài cáo cầy làm rộn,
Làng bỏ trống hổ báo tranh nhau.
Dân chúng cứ luôn luôn chịu cảnh khổ cực,
Lòng thương dân, ông há làm lơ sao.
Vị chỉ huy đưa ra cái luật mới,
Đoàn tiền trạm tới gần sát kinh đô cũ.
Giữ gìn biên giới cho yên mà cũng phải theo phò vua,
Chớ có để ý gì đến công danh sau này nữa.

Bản dịch của Phạm Doanh

Tướng núi Tây, chiếu vua truyền xuống,
Lũng Hữu đem quân đóng thu này.
Ban tham mưu thấy buồn thay
Tiếng nhà lừng lẫy từ ngày xa xưa
Nhân đó bọn cải tà rời bỏ,
Ngựa nòi ngóng chủ cũ hí vang.
Gắng lo kế hoạch đàng hoàng,
Thản nhiên cứ cái con đường tiến ra.
Mui xe bóng chiều tà chiếu thẳng,
Gió trên cao lồng lộng cờ quân.
Sông Thiên Thuỷ lạnh, thông buồn,
Núi Tuyết Sơn sạch, cát cồn quanh co.
Hoà với giặc là do ơn cũ,
Nơi biên cương phòng giữ không rời.
Xưa nay đối với vùng ngoài
Giữ yên nhờ ở cái tài cầm quân.
Nơi Yên, Kế rần rần đàn lợn,
Vùng Chu, Tần chạy trốn cá kình.
Trung nguyên sao lắm bất bình,
Đảng giặc vẫn thấy tung hoành khắp nơi.
Điện Chiêu Dương tên rơi bay tới,
Đồn hành quân khèn gọi não nùng.
Cung nhân áo đỏ khóc ròng,
Con vua áo trắng đi rong cùng đường.
Các sao xấu làm rung ngôi chủ,
Chốn lăng xưa ủ rũ khí tà.
Chén vàng la liệt đưa ra,
Cờ quạt phất phới chẳng hề lại bay.
Nơi miếu đổ trời còn mưa tạt,
Cung đốt tàn lửa rát sáng trưng
Màn cửa một tối rách bung,
Qua đêm cột vững ngả nghiêng đổ kềnh.
Ba tháng trời quân tranh đoạt lấy,
Lũ giặc Hồ thế thấy còn gân.
Bị thương mà vẫn cầm quân,
Lòng hăng gắng chí, quyết tâm hoàn thành
Lời khen ngợi chờ minh chủ tỏ,
Đặc ân so hơn cả các quan.
Chừng nào quan lớn hồi loan,
Để cùng chung sức dẹp tan bọn càn
Chốn quê mùa ba ngàn kẻ sĩ,
Dùng thang mây chiếm bảy chục thành.
Buồn chẳng đạt Tô Tần danh,
Chỉ giống nước Lỗ chư sinh giúp đời.
Danh sách quan chỗ ngồi khiêm tốn,
Nhưng đường đời giữ trọn lòng ngay.
Đưa vai đỡ trong phút giây,
Công danh sớm có từ ngày trẻ trung.
Ý những muốn theo đường Lưu Biểu,
Mà hoá thành chán kiểu Nễ Hành.
Lần này xa cách thấu tình,
Cố ngăn giọt lệ lòng thành ghi sâu.
Nơi ấp vắng cáo hồ nhộn nhạo,
Chốn làng hoang hổ báo tranh nhau.
Nhân dân lâm cảnh khổ đau,
Chân tình ông lại nỡ nào làm ngơ.
Người chỉ huy đề ra luật mới,
Quân đi đầu đã tới kinh xưa.
Giữ biên lại vừa giúp vua,
Sau công danh hãy bỏ qua cho rồi.
(Năm 757)

Nguyên chú: “Quách Anh Nghệ” 郭英乂 (Tên là Quách Anh Nghệ).

Mùa hạ năm đầu Vĩnh Thái (765), Nghiêm Vũ qua đời, Đỗ Tế 杜濟 giữ chức hành quân tư mã yêu cầu Quách Anh Nghệ lên giữ chức tiết độ sứ. Hán Châu chế sứ là Thôi Hãn 崔旰 lại yêu cầu đại tướng quân Vương Sùng Tuấn 王崇俊 tâu với triều đình để trừ khử Quách Anh Nghệ. Anh Nghệ giết Sùng Tuấn, ra lệnh cho Thôi Hãn về Thành Đô. Thôi Hoãn không vâng lệnh, Anh Nghệ mang quân đi đánh, nhưng bị thua. Anh Nghệ chạy về Giản Châu, Phổ Châu chế sứ là Hàn Trừng 韓澄 giết Anh Nghệ. Lúc đó quân đội vùng ba châu là Cung Châu, Lô Châu, và Kiếm Châu hợp nhau đánh Thôi Hãn, xứ Thục có loạn lớn.

[1] Cha của Quách Anh Nghệ là Quách Tri Vận 郭知運 từng giữ chức đô đốc Lũng Hữu, uy danh vang dội vùng tây.
[2] Chữ từ Liệt tử, chương Hoàng Đế, chỉ dân đã được thuần hoá: “Chu Tuyên Vương phương mục chính, hữu dịch nhân Lương Ương giả, năng dưỡng dã cầm thú, uỷ thực vu viên đình chi nội, vô bất nhu thuần giả” 周宣王方牧正,有役人梁鴦者,能養野禽獸,委食于園庭之內,雖虎狼雕鶚之類,無 不柔馴者 (Chu Tuyên Vương vừa lo việc nước, có người bề tôi là Lương Ương, có thể nuôi dưỡng cầm thú hoang, nuôi ăn ở trong vườn sân, tuy là các loại hổ báo điêu ngạc, không con nào là không hiền lành).
[3] Do chữ “phong thỉ trường xà” 封豕長蛇 (heo lớn, rắn dài) từ Tả truyện: “Ngô vi phong thỉ trường xà dĩ thực thượng quốc”.
[4] Tên một cung nơi vua ở tại Trường An.
[5] Chỉ trung tâm hành quân của lính nhà nước đóng nơi biên ải.
[6] Phục vụ trong viện Nghi Xuân, nơi vui chơi của vua.
[7] Đi ngoài đường, như dân thường.
[8] Chỉ ngôi vua.
[9] Nơi chôn các vị vua của chế độ đương thời, chỉ nơi tôn nghiêm.
[10] Loạn lạc nên các mồ mả nhà giàu bị đào để lấy đồ quý như chén vàng, bình ngọc.
[11] Chỉ An Lộc Sơn chiếm kinh đô.
[12] Khí trượng tượng trưng quyền do vua ban để hành xử nơi biên cương.
[13] Tô Tần 蘇秦 (? - 317 tr.CN), tự Quý Tử 季子, người Lạc Dương, làm thuyết khách vận động các nước nhỏ liên kết chống lại sự bành trướng của nhà Tần. Ông là bạn học của Trương Nghi 張儀 và đều là học trò của Quỷ Cốc Tử 鬼谷子. Sớm đi du thuyết các nước, nhưng thất bại quay về. Sau đó được sáu nước trao ấn tướng quốc, khiến cho nước Tần trong khoảng mười lăm năm không dám động binh bên phía đông của U Cốc quan. Cuối cùng ông là thân khách của vua Tề và bị giết.
[14] Thúc Tôn Thông 叔孫通, hiệu Tắc Tự Quân 稷嗣君, người vùng Tiết (nay là huyện Đằng, Sơn Đông) đời Tây Hán, trước làm quan với nhà Tần, sau hàng Hán, được chức bác sĩ. Ông thuyết phục Hán Cao Tổ dùng học trò nước Lỗ (ý chỉ học thuyết của Khổng Tử) để xếp đặt lại các nghi thức trong triều đình. Hán thư, Thúc Tôn Thông truyện có ghi lời ông: “Thần nguyện trưng Lỗ chư sinh dữ thần đệ tử cộng khởi triều nghi” 臣願徵魯諸生,與臣弟子共起朝儀 (Thần xin nguyện dùng các học trò nước Lỗ với học trò của hạ thần cùng khởi công đặt ra nghi thức trong triều).
[15] Lưu Biểu (142-208) tự Cảnh Thăng 景升, người Sơn Dương, Cao Bình đời Đông Hán. Thời Hán Hiến Đế giữ chức Kinh Châu chế sứ, có nhiều quân sĩ, yêu dân đãi sĩ, ung dung tự tại một cõi, không tranh hùng với ai. Khi Tào Tháo 曹操 mang quân tới đánh, quân chưa tới, ông lo lắng mà chết, con là Lưu Tông 劉琮 đầu hàng.
[16] Tự Chính Bình 正平, một nhân sĩ thời Tam Quốc, có tài biện luận, tính tình cứng rắn ương bướng, khinh khi Tào Tháo 曹操. Tháo tránh tiếng độc ác, bèn nhờ tay Hoàng Tổ 黃祖 giết.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Phụng tặng Quách trung thừa kiêm thái bộc khanh sung Lũng Hữu tiết độ sứ tam thập vận